Thông tin lý luận – Đảng bộ Khối Dân – Chính – Đảng Thành phố Hồ Chí Minh
Đổi mới nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng trong điều kiện hiện nay
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, năng lực cầm quyền và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng là vấn đề luôn mới bởi những điều kiện cụ thể và nhân tố ảnh hưởng luôn có sự thay đổi.
Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, là giải pháp quan trọng củng cố vị trí cầm quyền của Đảng, khẳng định sức sống mãnh liệt của CNXH.
1. Nội dung, phương thức cầm quyền của đảng
Nội dung cầm quyền của đảng là những vấn đề lớn của đất nước mà đảng đưa ra và thực hiện nhằm duy trì vai trò lãnh đạo của đảng đối với nhà nước và xã hội. Nội dung cầm quyền của đảng cộng sảnđối với nhà nước thể hiện không chỉ ở việc thiết lập các cơ quan nhà nước, mà còn xây dựng và hoàn thiện mối quan hệ, cơ chế hoạt động của các cơ quan đó. Sự lãnh đạo của đảng cộng sản bảo đảm cho nhà nước xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, phân định rõ trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, các cấp chính quyền, hoạt động có kỷ luật, kỷ cương, các thủ tục hành chính gọn nhẹ, đội ngũ công chức chuyên nghiệp, tận tụy phục vụ nhân dân.
Khi đảng đã có chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén nhất để đưa đường lối, chủ trương của đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự lãnh đạo của đảng đối với toàn xã hội. Trong phương thức cầm quyền, ngoài cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, đảng lãnh đạo chính quyền thể chế hoá đường lối, chủ trương của đảng thành hiến pháp, pháp luật, chính sách, kế hoạch và tổ chức thực hiện. Thực chất của đảng cầm quyền là: đảng lãnh đạo chính quyền và thông qua chính quyền để nhân dân làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Phương thức cầm quyền của đảng là khoa học về những nguyên tắc hành động chính trị của một đảng, về các phương pháp vạch ra con đường và cách thức đạt đến mục đích cuối cùng của Đảng. Đó là đường lối chính trị của Đảng, đường lối đó được hình thành trên cơ sở phân tích một cách khoa học các giai đoạn đấu tranh cách mạng do đảng lãnh đạo.
Trên cơ sở hiến pháp, đảng cộng sản cầm quyền xác định các nguyên tắc cơ bản định hướng xây dựng cơ cấu bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, để các cơ quan nhà nước đủ năng lực thực hiện được quyền lực mà nhân dân uỷ quyền. Dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản cầm quyền, nhà nước thiết lập bộ máy vững mạnh, trong sạch để thực sự có quyền lực và thực thi được quyền lực nhà nước.
Để bảo đảm được vai trò cầm quyền của đảng đối với xã hội, đảng phải có quyền uy; không có quyền uy thì không thể lãnh đạo được. Để có được quyền uy, đảng phải có uy tín. Uy tín cũng là một loại quyền uy. Loại quyền uy này có vai trò quyết định sinh mệnh chính trị của đảng. Đảng cầm quyền nào cũng có quyền uy, nhưng không phải tất cả các đảng cầm quyền đều có uy tín đối với giai cấp và toàn xã hội.
Năng lực lãnh đạo của một đảng cộng sản cầm quyền được thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, năng lực nhận thức được quy luật phát triển khách quan và khả năng vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước để đề ra chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn. Bên cạnh đó, đảng phải có năng lực chỉ đạo, tổ chức nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ những vấn đề mới nảy sinh, tạo sự thống nhất nhận thức và hành động trong toàn đảng, toàn dân.
Thứ hai, năng lực thể chế hoá, cụ thể hoá chủ trương, đường lối của đảng thành hiến pháp, pháp luật, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội đất nước, phản ánh được ý chí, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Thứ ba, năng lực lãnh đạo nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội trong việc vận động, tập hợp quần chúng trong thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối do đảng đề ra. Đây thực chất là năng lực lãnh đạo nhà nước – công cụ chủ yếu, mạnh mẽ nhất để bảo đảm sự lãnh đạo của đảng đối với toàn xã hội. Do đó, đảng phải xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh; có tổ chức bộ máy gọn nhẹ, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, năng lực kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của hệ thống chính trị; kịp thời phát hiện và xử lý đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tiễn để rút kinh nghiệm.
Thứ năm, năng lực phát hiện, đấu tranh để khắc phục sự suy thoái, biến chất và những tiêu cực ở trong đảng, trong xã hội và sự chống phá của các thế lực phản động, thù địch.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng cầm quyền, đảng phải đồng thời nâng cao cả năm năng lực nêu trên, trong đó, việc nâng cao năng lực hoạch định chiến lược, đề ra đường lối chính trị đúng đắn và xây dựng nhà nước pháp quyền vững mạnh, nhà nước của dân, do dân và vì dân là quan trọng nhất.
2. Đổi mới nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng ta trong điều kiện mới
Để xứng đáng là một Đảng Cộng sản cầm quyền chân chính, trong thời gian tới Đảng ta cần tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức cầm quyền:
Thứ nhất, đổi mới mạnh mẽ cách ra nghị quyết và thể chế hóa quan điểm, đường lối (thông qua các nghị quyết) của Đảng thành các chính sách, chiến lược, dự án, chương trình công tác lớn của Nhà nước. Cần phải coi đây là một trong những thước đo năng lực lãnh đạo của cấp ủy, của người đứng đầu cấp ủy. Giảm thiểu việc ra nghị quyết, cấp ủy dành nhiều thời gian hơn để đánh giá, bàn bạc, chỉ đạo hoạt động của các cơ quan nhà nước. Nếu cần ra nghị quyết mới thì phải bảo đảm tính ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, không dung hòa ý kiến, dễ nhớ, dễ thống nhất. Khắc phục bệnh hình thức, quan liêu trong xây dựng chính sách. Chỉ đạo quyết liệt các cơ quan nhà nước xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết của Đảng, khắc phục tình trạng chậm triển khai, hoặc triển khai hình thức, vận dụng không đúng quan điểm của nghị quyết.
Thứ hai, đổi mới, kiện toàn một số khâu trong công tác tổ chức cán bộ.Đảng phải trực tiếp chỉ đạo, bố trí công tác cán bộ chủ chốt của Nhà nước. Cấp ủy giữ quyền lãnh đạo, giới thiệu cán bộ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cấp ủy không quyết định trước, mà chỉ nêu yêu cầu, tiêu chuẩn để cơ quan nhà nước giới thiệu. Cấp ủy và cơ quan nhà nước phải làm việc, trao đổi nhiều lần cho kỹ càng để có phương án tốt nhất. Cuối cùng, cấp ủy quyết định giới thiệu để cơ quan nhà nước tiến hành bầu cử hoặc bổ nhiệm, bãi nhiệm theo thủ tục pháp luật.
Đẩy mạnh kiện toàn các ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy khối theo hướng: Chỉ thành lập ban cán sự đảng ở một số nơi rất quan trọng đối với Đảng; xây dựng Quy chế xử lý mối quan hệ giữa ban cán sự đảng và đảng ủy cơ quan. Khắc phục tình trạng cồng kềnh, chồng chéo giữa các tổ chức đảng cấp trên với các tổ chức đảng cấp dưới.
Tiếp tục đổi mới bộ máy các cơ quan tham mưu của Đảng. Bộ máy tham mưu của các tổ chức đảng phải có chất lượng cao, có năng lực nghiên cứu chính trị, năng lực phân tích, tổng kết, đưa ra được những kiến nghị ở tầm đường lối, chính sách với những quan điểm chính trị, quan điểm vĩ mô về các lĩnh vực. Các ban đảng chỉ tập trung tham mưu về lãnh đạo chính trị, không bị chi phối bởi vấn đề quản lý, hay chỉ đạo cụ thể việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội. Đội ngũ cán bộ Ban Đảng phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tốt, trình độ lý luận chính trị cao, có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý, có năng lực nghiên cứu ở tầm vĩ mô. Đây là những người hoạt động chính trị, chuyên gia giỏi về hoạch định chính sách, phải có trình độ nghiên cứu cao hơn cán bộ của các cơ quan nhà nước.
Để đạt được mục tiêu đó, Đảng phải có chính sách phát hiện, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài. Phải tìm, lựa chọn từ các đơn vị những cán bộ có năng lực chuyên môn giỏi, phẩm chất chính trị tốt, không bị chi phối bởi lợi ích vật chất hay áp lực từ bất kỳ ai. Phải có cơ chế ưu đãi đặc thù về vật chất và tinh thần để họ yên tâm cống hiến và bảo đảm khách quan, công tâm trong tham mưu chính sách.
Phát động và phát huy tinh thần tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.Cán bộ, đảng viên làm việc trong hệ thống chính trị không chỉ phải tiên phong, đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ được giao, mà còn phải hướng dẫn, động viên, khích lệ nhân dân làm theo. Trong giai đoạn hiện nay, người dân đòi hỏi đảng viên phải tiên phong trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, phải gương mẫu thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chỉ khi đảng viên “nói đi đôi với làm”, nhân dân sẽ tin và làm theo.
Thứ ba, phải nâng cao uy tín, tính thuyết phục của Đảng trước nhân dân. Đảng ta là đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội chủ yếu bằng sự thuyết phục chứ không phải bằng mệnh lệnh hành chính. Nhân dân tin Đảng và đi theo Đảng cũng bởi uy tín, niềm tin, khả năng thuyết phục của Đảng đối với xã hội. Sức thuyết phục đó được biểu hiện bằng đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, qua đội ngũ đảng viên, bằng trí tuệ và uy tín của Đảng mà biểu hiện tập trung ở Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương… Hiện nay, trình độ dân trí cao hơn nhiều so với trước đây, chỉ khi có đội ngũ đảng viên ưu tú, Đảng mới đủ sức lãnh đạo nhân dân. Đảng phải nâng tầm trí tuệ, không ngừng phát triển tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn.Trình độ trí tuệ của Đảng biểu hiện thông qua năng lực lãnh đạo đất nước. Đó là sự kết hợp chặt chẽ của năng lực tư duy; tri thức qua học tập, nghiên cứu; kinh nghiệm tổng kết thực tiễn, khả năng phát hiện cái mới. Chỉ khi đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng được tầm trí tuệ, trình độ lý luận mới khắc phục được bệnh chủ quan, duy ý chí.
Trong điều kiện hiện nay, một trong những tiêu chí đánh giá tính thuyết phục của Đảng là khả năng Đảng tạo ra được các phong trào đấu tranh chống tiêu cực, bảo vệ các nhân tố tích cực trong quần chúng nhân dân. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,nếu quần chúng thờ ơ với sự nghiệp cách mạng thì Đảng không thể giữ vững vai trò lãnh đạo đất nước. Những “điểm nóng” xảy ra ở một số địa phương trong những năm gần đây đã chứng minh điều đó. Tham nhũng đã trở thành “quốc nạn”, cuộc đấu tranh chống tham nhũng không đạt hiệu quả cao cũng là một trong những nguy cơ đối với Đảng ta với tư cách là đảng cầm quyền. Để tạo ra các phong trào quần chúng rộng lớn, đội ngũ đảng viên phải gương mẫu đi đầu, chấp nhận hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích tập thể và đất nước.
Thứ tư, cần đổi mới Đảng mạnh mẽ hơn nữa để vươn lên ngang tầm của một đảng cầm quyền trong thời kỳ đổi mới.Trước đây, với phương thức cầm quyền theo nguyên tắc: trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, Đảng phải đổi mới phương thức cầm quyền theo hướng: lãnh đạo Nhà nước và xã hội theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đảng phải có tầm nhìn chiến lược, dự báo mọi diễn biến của tình hình thế giới để luôn giữ thế chủ động trong mọi tình huống. Tương ứng, mỗi tổ chức, cấp uỷ đảng hay cán bộ, đảng viên cũng phải tự giác rèn luyện, tự phấn đấu, nâng cao trình độ, năng lực để lãnh đạo đơn vị, địa phương hoàn thành nhiệm vụ được giao. Việc hoàn thành nhiệm vụ cách mạng ở một giai đoạn, một thời kỳ nhất định là tiêu chí đánh giá năng lực cầm quyền của Đảng.
Thứ năm, Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân. Nếu thiếu bản lĩnh chính trị, xa rời bản chất giai cấp công nhân, Đảng dễ bị sai lầm, chệch hướng, khó vượt qua thử thách, trở ngại để đưa đất nước đi lên CNXH. Đảng phải nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa, tiếp thu những giá trị, tri thức của nhân loại, tham khảo kinh nghiệm các đảng cộng sản trên thế giới để áp dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Mọi hoạt động gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, buông lỏng kỷ luật đều dẫn tới nguy cơ làm mất bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Cần tăng cường thành phần công nhân trong Đảng, trong đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị các cấp. Cấp ủy, cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp tiêu biểu cho bản lĩnh chính trị của Đảng và của mỗi tổ chức đảng, vì vậy phải tăng cường giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, quan điểm giai cấp công nhân và truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho họ; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tranh quyền, ham tiền, vụ lợi. Xây dựng cấp ủy các cấp thực hiện tốt vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị vững vàng.
Thứ sáu, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thực chất, đó chính là nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng nhằm thực hiện đường lối đổi mới. Năng lực cầm quyền của Đảng cần phải dựa trên cơ sở khoa học, cả khoa học kinh tế, khoa học chính trị, khoa học tổ chức, khoa học lãnh đạo và quản lý…; và dựa trên cơ sở thực tiễn đổi mới đất nước và tình hình thế giới. Trong Đảng cần phải “nói đúng sự thật, nói rõ sự thật, nói hết sự thật”; bởi vì: sai lầm hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Đó là những sai lầm nghiêm trọng trong công tác xây dựng Đảng. Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Đảng có vững, cách mệnh mới thành công”(1). Phương châm cầm quyền của Đảng được thực hiện theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Song, điều cốt lõi hiện nay là phải mở rộng và thực hiện dân chủ. Không dân chủ thì không thể nắm vững tâm tư, nguyện vọng của dân, không thu hút được trí tuệ từ dân và chắc chắn nhân dân sẽ không thể tích cực tham gia đời sống chính trị – xã hội. Đây có thể coi là vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản trong phương thức cầm quyền của Đảng ta hiện nay.
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng còn là quyết tâm từ bỏ những tư tưởng bảo thủ, khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, giữ vững mối liên hệ máu thịt với nhân dân, vững vàng trước mọi khó khăn thử thách, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đi đến thắng lợi. Đây là bài học lớn nhất, cũng là vấn đề sống còn, có quan hệ đến sự ổn định và phát triển lâu dài của đất nước và sự tồn tại của Đảng. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải bắt đầu từ việc thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ và kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng. Xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng không thể giữ vững quyền lãnh đạo, bị suy yếu nhanh chóng, thậm chí biến chất và tan rã. Do vậy, phải kịp thời bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy trình để đảng viên được tham gia trực tiếp vào quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, thực hiện dân chủ trong sinh hoạt Đảng.
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi cấp thiết phải phòng chống nguy cơ thoái hóa, biến chất, suy thoái đạo đức, “tự diễn biến” từ bên trong. Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, các quy định của Đảng và Nhà nước trong phòng, chống tham nhũng; phát huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của các phương tiện thông tin đại chúng và dư luận xã hội.
Thứ bảy, xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát quyền lực hiệu quả.
Chế độ một đảng duy nhất cầm quyền bảo đảm cho Đảng không có sự cạnh tranh quyền lực, nhưng cũng là thách thức đối với Đảng ta do nguy cơ tha hóa quyền lực, mà biểu hiện cụ thể là sự độc đoán, chuyên quyền, xa rời quần chúng. Chính vì vậy, để củng cố vị trí và nâng cao năng lực cầm quyền, Đảng phải thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực. Trước hết, phải có cơ chế tự kiểm soát trong nội bộ Đảng. Phát huy vai trò, năng lực kiểm tra, giám sát của Ủy ban kiểm tra đảng các cấp đối với tổ chức đảng và đảng viên, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những biểu hiện mơ hồ, dao động, những việc làm không đúng quy định Điều lệ Đảng, các quy chế, quy định của Đảng. Coi trọng kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy trình liên quan đến các khâu của công tác cán bộ, do đây là việc làm phức tạp, nhạy cảm, dễ sinh ra các hiện tượng tiêu cực, chạy chức, chạy quyền, không bảo đảm chất lượng đội ngũ cán bộ, từ đó dẫn đến giảm sút năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Cùng với cơ chế tự kiểm soát của hệ thống chính trị, Đảng phải có cơ chế phát huy vai trò giám sát, phát hiện vấn đề của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội; của các tầng lớp nhân dân; thực sự tôn trọng, lắng nghe ý kiến nhân dân; tiếp tục hoàn thiện những quy định của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở. Xây dựng cơ chế để thẩm tra, xác minh những ý kiến phản ánh của nhân dân để Đảng tự “soi lại” các chủ trương, chính sách của Đảng. Thực hiện tự do, dân chủ, công khai trong bầu cử để lôi cuốn đông đảo nhân dân thực sự tham gia vào đời sống chính trị và lựa chọn đúng người đại diện cho mình. Những chính sách có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân như: xây dựng các công trình hạ tầng, phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục, di dân và tái định cư…phải có tổ chức hoặc đại biểu của nhân dân giám sát quá trình ra chính sách, thực thi chính sách và kiểm tra đánh giá chính sách. Mở rộng thực hiện các loại hình dân chủ trực tiếp như: trưng cầu ý dân; triển khai có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở. Nghiên cứu quy định cụ thể về trưng cầu dân ý (đã quy định trong Hiến pháp 2013), lấy phiếu tín nhiệm của nhân dân theo định kỳ đối với các chức danh lãnh đạo chủ chốt do dân bầu.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, năng lực cầm quyền và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng là vấn đề luôn mới bởi những điều kiện cụ thể và nhân tố ảnh hưởng luôn có sự thay đổi. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, là giải pháp quan trọng củng cố vị trí cầm quyền của Đảng, khẳng định sức sống mãnh liệt của CNXH.
PGS,TS Lưu Văn An
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
______________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 267- 268.
(Nguồn Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2014)
CÁC TIN BÀI KHÁC: