Tài liệu Bài thu hoạch module quản lý bệnh viện và module kinh tế y tế chăm sóc điều dưỡng

Mô tả:

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA Y

BÀI THU HOẠCH LIÊN MODULE
QUẢN LÝ BỆNH VIỆN VÀ KINH TẾ Y TẾ

CHĂM SÓC ĐIỀU DƯỠNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
PHẠM THỊ KIM HOÀNG
MSSV: 125272040

Tp. HCM, 08/2017

1

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến các thầy, các cô
trong bộ môn Quản lý bệnh viện và Kinh tế y tế Khoa Y – Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh
trong thời gian qua đã tận tình hướng dẫn chúng em những bài học rất bổ ích, sẽ là hành
trang cho em trong tương lai nghề nghiệp sau này.
Với lòng biết ơn sâu sắc, em cũng xin gửi lời cảm ơn đến thầy Nguyễn Thế Dũng,
người chủ nhiệm bộ môn cũng như là người thầy đã không tiếc thời gian, công sức để đứng
lớp giảng dạy, hướng dẫn chúng em từng li từng tí, để chúng em có thể thoải mái nói ra
những suy nghĩ của mình, giúp chúng em biết cách nhìn nhận vấn đề sâu sắc hơn.
Em cũng xin cảm ơn cô Phạm Thị Lượm đã rất nhiệt tình giảng dạy bằng tất cả kiến
thức, kỹ năng và tâm huyết, tạo nguồn cảm hứng để em có thể hoàn thành bài luận này.
Tp. HCM, ngày 01 tháng 08 năm 2017
Phạm Thị Kim Hoàng

2

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
MỤC LỤC
Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh sách hình vẽ

iv

Danh sách bảng biểu

v

CHƯƠNG 1. GIỚI THIÊÊU

1

1.1 . Đặt vấn đề
1.2 . Mục tiêu, phạm vi bài thu hoạch

1
2

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT

3

2.1 . Điều dưỡng và chăm sóc điều dưỡng
2.2 . Lịch sử phát triển ngành điều dưỡng Việt Nam và thế giới
2.2.1. Lịch sử phát triển ngành điều dưỡng thế giới
2.2.2. Lịch sử phát triển ngành điều dưỡng Việt Nam
2.3 . Các học thuyết về điều dưỡng
2.4 . Nguyên lý điều dưỡng hiện đại
2.4.1. Quy trình điều dưỡng
2.4.2. Chẩn đoán điều dưỡng
2.4.3. Chăm sóc bệnh nhân toàn diện
2.5 . Vai trò người điều dưỡng đối với người bệnh
2.6 . Tiêu chuẩn thực hành điều dưỡng lâm sàng
2.6.1. Tiêu chuẩn thực hành điều dưỡng lâm sàng của Hội điều dưỡng Hoa Kỳ
2.6.2. Chuẩn năng lực cơ bản của điều dưỡng Việt Nam
2.7. Vai trò của điều dưỡng trong hiệu quả trị liệu
2.7.1. Thế nào là hiệu quả trị liệu
2.7.2. Những hiệu quả trị liệu mang lại cho người bênh
2.7.3. Vai trò người điều dưỡng đối với hiệu quả trị liệu
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG

3
3
3
5
7
9
9
10
11
12
13
13
13
15
15
15
15
17

3.1 . Đôi nét về ngành điều dưỡng Việt Nam
3.2 . Những thành tựu đã đạt được
3.3 . Những tồn tại, khó khăn và thách thức

17
18
19

CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
4.2. Kiến nghị

21
21
21

Tài liê Êu tham khảo

22

3

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
DANH SÁCH HÌNH VẼ

Tên hình
Hình 1 Quy trình điều dưỡng
Hình 2 Trình độ điều dưỡng, hộ sinh toàn quốc
Hình 3 Số điều dưỡng/1000 dân của một số nước trong khu vực và thế giới

4

Trang
10
17
18

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
DANH SÁCH BẢNG BIỂU

Danh sách bảng biểu
Tên bảng
Bảng 1 Bảng tóm lược học thuyết điều dưỡng
Bảng 2 Phân biệt chẩn đoán điều dưỡng và chẩn đoán điều trị
Bảng 3 Vai trò và chức năng người điều dưỡng

5

Trang
7, 8, 9
11
12

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU
1.1 . Đặt vấn đề.
Điều đưỡng là một nghề nghiệp trong hệ thống y tế nhằm bảo vệ, nâng cao, tối ưu về sức
khỏe và các khả năng; dự phòng bệnh và chấn thương; xoa dịu nỗi đau qua chẩn đoán và
điều trị đáp ứng con người; tăng cường chăm sóc các cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã
hội. [1]
Lực lượng Điều dưỡng viên (kể cả Nữ hộ sinh) giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống chăm
sóc sức khỏe ban đầu với mục tiêu chẩn đoán, điều trị, chăm sóc các nhu cầu thiết yếu của
người dân trong việc nâng cao sức khỏe, duy trì, phục hồi và dự phòng bệnh tật ở ba
tuyến: tuyến đầu, tuyến sau, và tuyến cuối kết hợp với các chuyên ngành khác trong toán
chăm sóc sức khỏe.
Ngày nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, điều dưỡng đã được công nhận là một nghề
nghiệp độc lập, được bảo hộ bằng luật pháp, một số nước đã xây dựng luật hành nghề điều
dưỡng. Người điều dưỡng có các quyền và trách nhiệm nghề nghiệp được qui định trong
luật hành nghề, đây cũng là một công cụ để giám sát trách nhiệm của người điều dưỡng
trước cộng đồng, xã hội. Do đó, để được làm việc trong nghề điều dưỡng thì người điều
dưỡng cần phải có các giấy tờ hợp lệ được pháp luật thừa nhận, như bằng cấp hoặc ở một
số nước là chứng chỉ hành nghề. Thông thường người có chứng chỉ hành nghề điều dưỡng
phải định kỳ tham gia các kỳ sát hạch để đảm bảo người điều dưỡng luôn luôn cập nhật,
nâng cao kỹ năng nghề nghiệp. Ngành Điều dưỡng đã xây dựng cho mình một hệ thống
học thuyết khoa học phong phú áp dụng vào chăm sóc người bệnh, nghiên cứu khoa học
và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Bên cạnh đó Hiệp hội Điều dưỡng tại các
nước và quốc tế ra đời đã thúc đẩy vị trí, vai trò nghề nghiệp của người điều dưỡng.
Ở Việt Nam, trước đây người điều dưỡng được gọi là Y tá, có nghĩa là người phụ tá của
người thầy thuốc. Tuy nhiên, Y tá trước đây thường là sơ cấp, chỉ được đào tạo thời gian
từ 9 đến 18 tháng. Nhiệm vụ chủ yếu của họ là giúp việc cho y, bác sĩ trong chăm sóc điều
trị bệnh nhân, nghĩa là thực hiện y lệnh một cách thụ động. Với cách hiểu này, vai trò
người điều dưỡng trong công tác khám chữa bệnh đã bị xem nhẹ đi rất nhiều. Vào tháng
10 năm 1990, Hội Y tá – Điều dưỡng được thành lập. Hội đề nghị với Bộ Y tế đổi tên từ Y
tá thành Điều dưỡng. Đây là một bước tiến mới về quan điểm cũng như khẳng định vai trò
không thể thiếu của người điều dưỡng trong quá trình chăm sóc và điều trị bệnh nhân.
Mặc dù trình độ đào tạo và phạm vi thực hành của điều dưỡng Việt Nam đã có nhiều thay
đổi, song nhận thức chung về vai trò của người điều dưỡng vẫn chưa được cập nhật phù
hợp với thực tế.
Tỷ lệ bác sĩ/điều dưỡng tối thiểu mà Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo là 1 /4, thế nhưng
ở Việt Nam tỷ lệ này là 1 bác sĩ/1.5 điều dưỡng, và cũng là thấp nhất trong khu vực Đông
Nam Á. (2)
Nghề điều dưỡng cũng có những rủi ro nhất định. Một khảo sát tại Bệnh viện Nhi Trung
ương năm 2003 cho thấy, có tới 75% số nhân viên y tế bị vật sắc nhọn đâm khi làm việc
6

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
(tiêm truyền, bẻ ống thuốc…) mặc dù đa số có đeo găng tay. Gần 93% trong số đó là điều
dưỡng viên. Số lần gặp rủi ro này trung bình là 5 lần mỗi năm, có trường hợp đến 67 lần.
Phần lớn trong số họ bị vật sắc nhọn đâm xuyên thấu qua da nên nguy cơ mắc các bệnh
lây qua đường máu rất cao. Việc thiếu người, trình độ chưa cao, áp lực công việc lớn là
yếu tố tăng thêm phần rủi ro của các điều dưỡng viên.
1.2 . Mục tiêu, phạm vi bài thu hoạch.
Từ những nội dung trên, mục tiêu của bài thu hoạch này nhằm bàn luận về vai trò của
người điều dưỡng trong công tác chăm sóc và chữa trị người bệnh, thực trạng ngành điều
dưỡng Việt Nam hiện nay, những thành tựu đã đạt được cũng như những tồn tại cần giải
quyết.

7

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
2.1 . Điều dưỡng và chăm sóc điều dưỡng
Trong từ điển tiếng Việt, “chăm sóc” nghĩa là trông nom, nuôi nấng, bảo dưỡng, giúp đỡ,
hỗ trợ, chia sẻ, chú ý đến, để ý đến, quan tâm đến, lo lắng đến, cần đến,… Như vậy, chăm
sóc điều dưỡng là bao hàm những “công việc” trên, được thực hiện bởi người Điều dưỡng
dành cho người bệnh.
Đã có nhiều định nghĩa về điều dưỡng tương ứng với thời đại và nền Y học mà các tác giả
đang sống. Họ đưa ra định nghĩa phản ánh bản chất công tác chăm sóc điều dưỡng, và mỗi
một định nghĩa là một cột mốc đánh dấu sự phát triển của nghề điều dưỡng.
Theo Florence Nightingale 1860, người được cả thế giới tôn kính là người sáng lập ra
ngành điều dưỡng, đã định nghĩa: “Điều dưỡng là một nghệ thuật sử dụng môi trường của
người bệnh để hỗ trợ sự phục hồi của họ”
Theo Virginia Henderson 1960, “Điều dưỡng là hỗ trợ các hoạt động nâng cao hoặc hồi
phục sức khỏe của người bệnh hoặc người khỏe, hoặc cho cái chết được thanh thản mà
mỗi cá thể có thể thực hiện nếu họ có sức khỏe, ý chí và kiến thức. Giúp đỡ các cá thể sao
cho họ đạt được sự độc lập càng sớm càng tốt”.
Hiệp hội Điều dưỡng Hoa Kì (America Nurses Association, 1965) đã định nghĩa:“Điều
dưỡng là một nghề hỗ trợ cung cấp các dịch vụ chăm sóc đóng góp vào việc hồi phục và
nâng cao sức khỏe”. Năm 1995, Hiệp hội này cũng đã đưa ra định nghĩa: “Điều dưỡng là
chẩn đoán và điều trị những phản ứng của con người đối với bệnh hiện tại hoặc bệnh có
tiềm năng xảy ra”.
Như vậy, có rất nhiều định nghĩa về điều dưỡng nhưng về cơ bản, điều dưỡng không chỉ
đơn thuần là chăm sóc người bệnh, mà còn hỗ trợ phòng ngừa và điều trị bệnh tật, chăm
sóc về cả thể chất và tinh thần cho người bệnh.
2.2 . Lịch sử phát triển ngành điều dưỡng Việt Nam và thế giới [3]
2.2.1 Lịch sử phát triển ngành điều dưỡng thế giới
Việc chăm sóc, nuôi dưỡng bắt đầu từ những bà mẹ. Bà mẹ là người đầu tiên chăm sóc,
bảo vệ đứa con từ lúc bé lọt lòng và việc đó được duy trì cho tới ngày nay. Mặt khác, từ
thời xa xưa, do kém hiểu biết, con người tin vào thần linh và cho rằng “thần linh là đấng
siêu nhiên có quyền uy”, “thượng đế ban sự sống cho muôn loài”… Khi có bệnh, họ mời
pháp sư đến, vừa điều trị, vừa cầu kinh, sợ hãi và tuyệt vọng van xin thần linh tha mạng
sống cho bệnh nhân. Khi có người chết, họ cho rằng đó là tại số, tại trời, tại thần linh
không cho sống. Các giáo đường, nhà thờ được xây dựng để thờ thần thánh và dần dần trở
thành những trung tâm chăm sóc và điều trị bệnh nhân. Tại đây có các pháp sư trị bệnh
và các tín nữ vừa giúp lễ, vừa phụ chăm sóc bệnh nhân. Từ đó hình thành mối liên kết y
khoa, điều dưỡng và tôn giáo.
Năm 60, bà Phoebe (Hy Lạp) đã đến từng gia đình có người ốm đau để chăm sóc. Bà được
ngưỡng mộ và suy tôn là người nữ điều dưỡng tại gia đầu tiên của thế giới.
8

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
Thế kỷ thứ 4, bà Fabiola (La Mã) đã tự nguyện biến căn nhà sang trọng của mình thành
bệnh viện, đón những người nghèo khổ đau ốm về để tự bà chăm sóc nuôi dưỡng.
Thời kỳ viễn chinh ở châu Âu, bệnh viện được xây dựng để chăm sóc số lượng lớn những
người hành hương bị đau ốm. Cả nam và nữ đều thực hiện việc chăm sóc sức khoẻ cho tất
cả mọi người. Nghề điều dưỡng bắt đầu trở thành nghề được coi trọng.
Đến thế kỷ thứ 16, chế độ nhà tu ở Anh và châu Âu bị bãi bỏ. Các tổ chức tôn giáo bị giải
tán, dẫn đến sự thiếu hụt trầm trọng người chăm sóc bệnh nhân. Những người phụ nữ
phạm tội, bị giam giữ được tuyển chọn làm điều dưỡng thay vì thực hiện án tù, còn những
người phụ nữ khác chỉ chăm sóc gia đình mình thôi. Bối cảnh này tạo ra những quan niệm
lệch lạc của xã hội đối với điều dưỡng.
Giữa thế kỷ thứ 18 đầu thế kỷ thứ 19, việc cải cách xã hội đã thay đổi vai trò người điều
dưỡng. Vai trò của người phụ nữ trong xã hội nói chung cũng được cải thiện. Trong thời
kỳ này, một phụ nữ người Anh đã được thế giới tôn kính và suy tôn là người sáng lập ra
ngành điều dưỡng, đó là bà Florence Nightingale (1820 – 1910). Bà sinh ra trong một gia
đình giàu có ở Anh nên được giáo dục chu đáo. Bà biết nhiều ngoại ngữ, đọc nhiều sách
triết học, tôn giáo, chính trị. Ngay từ nhỏ, bà đã thể hiện thiên tính và hoài bão được giúp
đỡ người nghèo khổ. Bà đã vượt qua sự phản kháng của gia đình để vào học và làm việc
tại bệnh viện Kaiserswerth (Đức) năm 1847. Sau đó bà học thêm ở Paris (Pháp) vào năm
1853. Những năm 1854-1855, chiến tranh Crimea nổ ra, bà cùng 38 phụ nữ Anh khác
được phái sang Thổ Nhĩ Kỳ để phục vụ các thương binh của quân đội Hoàng gia Anh. Tại
đây bà đã đưa ra lý thuyết về khoa học vệ sinh trong các cơ sở y tế và sau hai năm bà đã
làm giảm tỷ lệ chết của thương binh do nhiễm trùng từ 42% xuống còn 2%. Đêm đêm,
Florence một mình cầm ngọn đèn dầu đi tua, chăm sóc thương binh, đã để lại hình tượng
người phụ nữ với cây đèn trong trí nhớ những người thương binh hồi đó. Chiến tranh
chưa kết thúc, Florence đã phải trở lại nước Anh. Cơn “sốt Crimea” và sự căng thẳng của
những ngày ở mặt trận đã làm cho bà mất khả năng làm việc. Bà được dân chúng và
những người lính Anh tặng món quà 50.000 bảng Anh để chăm sóc sức khoẻ. Vì sức khoẻ
không cho phép tiếp tục làm việc ở bệnh viện, Florence đã lập ra hội đồng quản lý ngân
sách 50.000 bảng Anh vào năm 1860. Trường điều dưỡng Nightingale cùng với chương
trình đào tạo 1 năm đã đặt nền tảng cho hệ thống đào tạo điều dưỡng không chỉ ở nước
Anh mà còn ở nhiều nước trên thế giới.
Để tưởng nhớ công lao của bà và khẳng định quyết tâm tiếp tục sự nghiệp mà Florence đã
dày công xây dựng. Hội đồng điều dưỡng thế giới đã quyết định lấy ngày 12-5 hàng năm,
ngày sinh của Florence Nightingale, làm ngày điều dưỡng quốc tế. Bà đã trở thành người
mẹ tinh thần của ngành điều dưỡng thế giới.
Hiện nay ngành điều dưỡng của thế giới đã được xếp là một ngành nghề riêng biệt, ngang
hàng với các ngành nghề khác. Có nhiều trường đào tạo điều dưỡng với nhiều trình độ
điều dưỡng khác nhau: trung học, đại học, sau đại học. Nhiều cán bộ điều dưỡng đã có
bằng thạc sĩ, tiến sĩ và nhiều công trình nghiên cứu khoa học điều dưỡng nhằm nâng cao
phát triển thực hành điều dưỡng.
9

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
2.2.2 Lịch sử phát triển ngành điều dưỡng Việt Nam
Cũng như thế giới, từ xa xưa các bà mẹ Việt Nam đã chăm sóc, nuôi dưỡng con cái và gia
đình mình. Bên cạnh những kinh nghiệm chăm sóc của gia đình, các bà đã được truyền lại
các kinh nghiệm dân gian của các lương y trong việc chăm sóc người bệnh. Lịch sử y học
của dân tộc ghi rõ phương pháp dưỡng sinh, đã được áp dụng trong việc điều trị và chăm
sóc người bệnh. Hai danh y nổi tiếng thời xưa của dân tộc ta là Hải Thượng Lãn Ông Lê
Hữu Trác và Tuệ Tĩnh đã sử dụng phép dưỡng sinh để trị bệnh rất có hiệu quả. Thời kỳ
Pháp thuộc, người Pháp đã xây nhiều bệnh viện. Nên trước năm 1900, họ đã ban hành chế
độ học việc cho những người muốn làm việc ở bệnh viện. Việc đào tạo không chính quy
mà chỉ là “cầm tay chỉ việc”. Họ là những người giúp việc thạo kỹ thuật, vững tay nghề và
chỉ phụ việc cho các bác sĩ người Pháp mà thôi.
Năm 1901, mở lớp nam y tá đầu tiên tại Bệnh viện Chợ Quán nơi điều trị bệnh tâm thần
và hủi. Ngày 20-12-1906, toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định thành lập ngạch
nhân viên điều dưỡng bản xứ. Năm 1910, lớp học rời về Bệnh viện Chợ Rẫy để đào tạo y
tá đa khoa. Ngày 01-12- 1912, công sứ Nam Kỳ ra quyết định mở lớp nhưng mãi đến ngày
18/06/1923 mới mở trường điều dưỡng bản xứ. Do chính sách của thực dân Pháp không
tôn trọng người bản xứ và coi y tá chỉ là người giúp việc nên về lương bổng chỉ được xếp
ở ngạch hạ đẳng. Năm 1937, Hội Chữ thập đỏ Pháp tuyển sinh lớp nữ y tá đầu tiên ở Việt
Nam lớp học tại 38 Tú Xương Năm 1924. Hội y tá ái hữu và Nữ hộ sinh Đông Dương
thành lập, người sáng lập là cụ Lâm Quang Thiêm, nguyên giám đốc Bệnh viện Chợ
Quán. Chánh hội trưởng là ông Nguyễn Văn Mân. Hội đã đấu tranh với chínhquyền thực
dân Pháp yêu cầu đối xử công bằng với y tá bản xứ, và sau đó cho y tá được thi chuyển
ngạch trung đẳng.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa vừa mới thành
lập đã phải bước ngay vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lớp y tá đầu tiên được
đào tạo 6 tháng do GS. Đỗ Xuân Hợp làm hiệu trưởng được tổ chức tại quân khu X (Việt
Bắc). Những y tá vào học lớp này được tuyển chọn tương đối kỹ lưỡng. Sau đó liên khu
III cũng mở lớp đào tạo y tá. Năm 1950, ta mở nhiều chiến dịch, nhu cầu chăm sóc thương
bệnh binh tăng mạnh. Cần đào tạo y tá cấp tốc (3 tháng) để cung cấp nhiều y tá cho kháng
chiến đáp ứng công tác quản lý chăm sóc và phục vụ người bệnh.
Trong những năm 1950, Cục Quân y cũng đã mở một số lớp đào tạo y tá trưởng, nhưng
chương trình chưa được hoàn thiện. Mặt khác, kháng chiến rất gian khổ, ta có ít máy móc
y tế, thuốc men cũng rất hạn chế, nên việc điều trị cho bệnh nhân chủ yếu dựa vào chăm
sóc và chính nhờ điều dưỡng mà nhiều thương bệnh binh bị chấn thương, đoạn chi do
những vết thương chiến tranh, sốt rét ác tính đã qua khỏi. Năm 1954, cuộc kháng chiến
chống Pháp thắng lợi. Đất nước ta bị chia làm 2 miền. Miền Bắc bắt tay vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục chịu sự xâm lược của đế quốc Mỹ.
Ở miền Nam
Năm 1956 có trường Cán sự điều dưỡng Sài gòn, đào tạo Cán sự điều dưỡng 3 năm. Năm
1968 do thiếu điều dưỡng trầm trọng nên đã mở thêm ngạch điều dưỡng sơ học 12 tháng
chính quy gọi Tá viên điều dưỡng tại các trường điều dưỡng. Hội Điều dưỡng Việt Nam
10

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
tại miền Nam được thành lập. Hội xuất bản nội san điều dưỡng. Năm 1973 mở lớp điều
dưỡng y tế công cộng 3 năm tại Viện Quốc gia y tế công cộng.
Ở miền Bắc
Năm 1954, Bộ Y tế đã xây dựng chương trình đào tạo y tá sơ cấp hoàn chỉnh để bổ túc cho
số y tá học cấp tốc trong chiến tranh. Năm 1968, Bộ Y tế xây dựng tiếp chương trình đào
tạo y tá trung cấp, tuyển sinh học hết cấp 2 (hết lớp 7) với thời gian đào tạo y tá trung học
2 năm 6 tháng. Khóa đầu tiên đào tạo của lớp y tá được tổ chức tại Bệnh viện E trung
ương, Bệnh viện Việt Đức (đào tạo chuyên khoa), Bệnh viện Bạch Mai và sau đó được
xây dựng thành trường Trung học Y tế Bạch Mai trực thuộc Bộ Y tế. Đồng thời Bộ Y tế
cũng gửi giảng viên của hệ này đi tập huấn ở Liên Xô, Ba Lan, CHDC Đức từ năm 1975,
tiêu chuẩn tuyển chọn vào y tá trung học cần trình độ văn hóa cao hơn (tốt nghiệp hết cấp
3), học sinh được tuyển chọn bắt buộc phải tốt nghiệp trung học phổ thông hay bổ túc văn
hóa và chương trình đào tạo cũng hoàn thiện hơn. Việc đào tạo điều dưỡng trưởng cũng
đã được quan tâm. Ngay từ năm 1960, một số bệnh viện và trường trung học y tế trung
ương đã mở lớp đào tạo y tá trưởng như lớp Trung học y tế Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh
viện E Hà Nội. Tuy nhiên, chương trình và tài liệu giảng dạy chưa được hoàn thiện. Ngày
21/11/1963, Bộ trưởng Bộ Y tế ra quyết định về chức vụ y tá trưởng ở các cơ sở điều trị:
bệnh viện, Viện điều dưỡng.
Năm 1975, kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đất nước được thống nhất. Bộ Y tế đã thống
nhất chỉ đạo công tác chăm sóc và điều trị bệnh nhân ở cả hai miền. Từ đó, chương trình
đào tạo điều dưỡng được thống nhất chung là đào tạo Y tá trung học, học 2 năm 6 tháng.
Năm 1982, Bộ Y tế ban hành chức danh y tá trưởng bệnh viện và y tá trưởng khoa.
Năm 1985, Bộ Y tế thành lập tổ nghiên cứu y tá và một số bệnh viện đã xây dựng phòng
điều dưỡng, thí điểm tách ra khỏi phòng y vụ tại bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Đa
khoa Uông Bí.
Ngày 14 tháng 7 năm 1990, Bộ Y tế ban hành quyết định số 570/BYT-QĐ thành lập phòng
Y tá điều dưỡng trong các bệnh viện có trên 150 giường bệnh.
Ngày 14 tháng 3 năm 1992 Bộ trưởng Bộ Y tế ra quyết định thành lập phòng y tá trong Vụ
Điều trị của Bộ Y tế và đến năm 1996, Bộ Y tế chính thức bổ nhiệm chức vụ trưởng phòng
điều dưỡng đầu tiên.
Năm 1985 ở Đại học Y Hà Nội, tại Vụ Điều trị, Phòng điều dưỡng Vụ Điều trị đã có đóng
góp quan trọng vào việc phát triển hệ thống điều dưỡng các cấp.
Năm 1986 về đào tạo điều dưỡng Đại học, năm 1985, Bộ Y tế được Bộ Đại học và Trung
học chuyên nghiệp (Bộ Giáo dục và Đào tạo) đồng ý, đã tổ chức khóa đào tạo đại học Cử
nhân điều dưỡng tại chức đầu tiên tại Trường Đại học Y Hà Nội, năm 1986 tại Đại học Y
Dược thành phố Hồ Chí Minh và đến năm 1996 tổ chức khóa đào tạo Đại học Cử nhân
điều dưỡng chính quy.
Năm 1999 Bộ Y tế chính thức ban hành chức vụ điều dưỡng trưởng tại Sở Y tế. Việc đào
tạo điều dưỡng cao đẳng bắt đầu từ năm 1993 và hiện nay Bộ Y tế đang từng bước nâng
11

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
cấp các trường trung cấp y lên thành trường cao đẳng y tế. Từ năm 2003 chương trình đào
tạo điều dưỡng trung cấp rút ngắn từ 2 năm 6 tháng, xuống còn 2 năm.
Năm 2006, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh được Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo
cho phép mở đào tạo thạc sĩ điều dưỡng đầu tiên của Việt nam, chương trình được ThS.
ĐD Trần Thị Thuận và nhóm Hội điều dưỡng Nhịp cầu thân hữu biên soạn. Riêng về đào
tạo điều dưỡng trưởng, liên tục từ năm 1982 đến nay nhiều lớp điều dưỡng trưởng đã được
tổ chức tại các trường Trung học Kỹ thuật Y tế Trung ương I (nay là Đại học Kỹ thuật y tế
Hải Dương), Trung học Kỹ thuật Y tế Trung ương III (nay là Khoa điều dưỡng kỹ thuật y
học Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh) lớp THYT Bạch Mai, Cao đẳng y tế Nam
Định (nay là Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định).
Đến 2005, chương trình Quản lý điều dưỡng được Bộ Y tế chỉnh lý thành chương trình
đào tạo điều dưỡng trưởng dùng đào tạo chung cho các điều dưỡng trưởng khoa, điều
dưỡng trưởng bệnh viện toàn quốc.
2.3 . Các học thuyết về điều dưỡng
Học thuyết điều dưỡng là kết quả những khái niệm được xác định, được công nhận một
cách có hệ thống qua các nghiên cứu khoa học điều dưỡng, có liên quan những hiện
tượng, sự kiện chăm sóc thực hành điều dưỡng nhằm hướng dẫn việc chăm sóc điều
dưỡng đạt được hiệu quả tốt.
Bảng 1: Bảng tóm lược học thuyết điều dưỡng [3]
Học thuyết Mục tiêu của điều dưỡng
gia điều
dưỡng

Tóm lược thực hành

Nightingale

Làm cho các quá trình hồi phục
của cơ thể trở nên dễ dàng hơn
bằng cách tác động lên môi
trường người bệnh.

Môi trường người bệnh được kiểm
soát bao gồm: quản lý về tiếng ồn,
ánh sáng, vệ sinh cá nhân, dinh
dưỡng, tạo sự thoải mái, giao tiếp xã
hội, niềm tin, hi vọng cho người bệnh.

Peplau – 1952

Phát triển mối quan hệ giữa điều Điều dưỡng giữ vai trò quan trọng
dưỡng và người bệnh
liên quan đến việc chăm sóc điều trị
bệnh, đến mối quan hệ giữa điều
dưỡng và người bệnh (Peplau,1952).
Người điều dưỡng tham gia vào hệ
thống chăm sóc sức khỏe làm phát
triển các mối quan hệ cá nhân được
diễn ra một cách tự nhiên và dễ dàng
hơn
(Marrier
Tomey và Alligood, 2002).

Henderson –

Làm việc độc lập với những Điều dưỡng giúp người bệnh thực
12

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
1996

nhân viên y tế khác (Marriner hiện 14 nhu cầu cơ bản của con người
Tomey và Alligood, 2002); giúp theo Hendersons (Henderson,1996).
người bệnh có thể phát triển tính
độc lập càng sớm càng tốt
(Henderson, 1996); giúp người
bệnh hồi phục sức khỏe.

Abdellah
-1960

Cung cấp các dịch vụ cho các cá Học thuyết này liên quan đến 21 vấn
nhân, gia đình và xã hội, vừa đề của điều dưỡng của Abdellah
quan tâm, khéo léo, nhẹ nhàng, (Abdellah và cộng sự, 1960).
vừa thể hiện sự thông minh,
thành thạo về thao tác kỹ thuật
khi chăm sóc người bệnh
(Marriner – Tomey và Alligood,
2002).

Rogers – 1970

Duy trì và nâng cao sức khỏe, Con người tiến triển trong suốt một
ngăn ngừa bệnh tật, chăm sóc và cuộc đời. Người bệnh thay đổi liên tục
phục hồi chức năng thông qua và cùng tồn tại với môi trường.
Môn khoa học nhân văn của
điều dưỡng (Rogers, 1970).

King – 1971

Dùng sự giao tiếp và truyền đạt
thông tin để giúp người bệnh
củng cố, xây dựng lại khả năng
thích ứng chủ động với môi
trường.

Quy trình điều dưỡng được định nghĩa
như một quá trình tương tác qua lại
lẫn nhau giữa người điều dưỡng,
người bệnh và hệ thống chăm sóc sức
khỏe (King, 1981).

Neuman 1972

Giúp đỡ các cá nhân, gia đình và
các nhóm trong việc đạt được và
duy trì tình trạng sức khỏe toàn
diện ở mức cao nhất bằng những
can thiệp có mục đích.

Việc giảm tình trạng stress là mục tiêu
của những hệ thống kiểu mẫu trong
thực hành điều dưỡng. Những hoạt
động của điều dưỡng là phòng ngừa
cấp 1, cấp 2 hay cấp 3 (Newman,
1972).

Leininger 1978

Cung cấp dịch vụ chăm sóc phù
hợp với khoa học và kiến thức
với chăm sóc như một điểm
quan trọng.

Với học thuyết chăm sóc này, việc
chăm sóc được tập trung và thống
nhất về lĩnh vực thực hành và chăm
sóc điều dưỡng.

Roy – 1979

Xác định các loại nhu cầu của Mô hình sự thích nghi này được dựa
người bệnh, nhận định sự thích vào những cách thích nghi của người
nghi của người bệnh với những bệnh về tâm sinh lý, xã hội, và sự độc
13

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
nhu cầu đó và giúp người bệnh lập hay phụ thuộc.
thích nghi.
Watson 1979

Nâng cao sức khỏe, phục hồi sức Học thuyết này liên quan đến triết học
khỏe và ngăn ngừa bệnh tật.
và khoa học chăm sóc; chăm sóc là
quá trình tương tác lẫn nhau bao gồm
những can thiệp để đáp ứng những
nhu cầu của con người.

Benner và
Wrubel 1989

Tập trung vào nhu cầu của người
bệnh giúp cho việc chăm sóc
như là một cách để đối đầu với
bệnh tật (Chinn và Kramer,
2004).

Chăm sóc tập trung vào nhu cầu cần
thiết của người bệnh. Công việc chăm
sóc của điều dưỡng tạo ra những khả
năng đối đầu với những vấn đề và làm
cho những khả năng đó ngày càng
nâng cao, phát triển. (Benner và
Wrubel, 1989).

2.4 . Nguyên lý điều dưỡng hiện đại
2.4.1 Quy trình điều dưỡng (Nursing proces).
Được đưa ra bởi Hall năm 1955, Johnson 1959, Wiedenbach 1963. Quy trình điều dưỡng
được xem là công cụ mang tính khoa học để người điều dưỡng thực hiện chức năng độc
lập của mình trong chăm sóc người bệnh
Các bước của quy trình điều dưỡng:

A (Assessing ) Nhận định.
D (Diagnosing) Chẩn đoán điều dưỡng.
P (Planing) Lập kế hoạch điều dưỡng.
I (Implementing )Thực hiện kế hoạch.
E ( Evaluating ) Đánh giá

14

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

Hình 1. Quy trình điều dưỡng [3]
Quy trình điều dưỡng là hệ thống mở, điều dưỡng áp dụng quy trình điều dưỡng để chăm
sóc người bệnh. Quy trình điều dưỡng cần được thực hiện liên tục và thay đổi khi nhu
cầu người bệnh thay đổi. Đầu ra là sự tái lập như sự phản hồi của hệ thống.
2.4.2 Chẩn đoán điều dưỡng.
Cũng như người bác sĩ, muốn điều trị người bệnh có hiệu quả bác sĩ phải chẩn đoán ra
bệnh, người điều dưỡng cũng vậy, muốn chăm sóc người bệnh có hiệu quả điều dưỡng
phải chẩn đoán ra những vấn đề của người bệnh và hiểu nguyên nhân của vấn đề.

Chẩn đoán điều dưỡng là cụm từ nêu lên vấn đề của người bệnh cần điều dưỡng can

thiệp.
Chẩn đoán điều dưỡng gồm 2 vế: vấn đề của người bệnh + nguyên nhân.
Ví dụ:
 Mất ngủ do stress từ bệnh.
 Giảm vận đông do yếu liệt.
 Nguy cơ té ngã do kích động, co giật.
 Nguy cơ táo bón do người bệnh không vận động.

Bảng 2: Phân biệt chẩn đoán điều dưỡng và chẩn đoán điều trị
15

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
Chẩn đoán điều trị

Chẩn đoán điều dưỡng

– Mô tả bệnh.

– Mô tả phản ứng người bệnh.

– Tồn tại trong quá trình bệnh.

– Thay đổi trong quá trình bệnh,

Vd: sốt xuất huyết

theo sự đáp ứng của người bệnh.

2.4.3 Chăm sóc bệnh nhân toàn diện.
Chăm sóc bệnh nhân toàn diện là sự chăm sóc đáp ứng các nhu cầu cơ bản của người bệnh
hàng ngày về thể chất tinh thần và xã hội. Định nghĩa nầy giúp chúng ta hình dung được
bức tranh về nội dung của công tác chăm sóc người bệnh toàn diện không chỉ các nhu cầu
chữa bệnh mà còn nhu cầu cơ bản của một con người như: ăn, mặc, ở, vệ sinh cá nhân,
giao tiếp với thầy thuốc và Điều dưỡng, hiểu biết về chăm sóc và phòng bệnh… Những
như cầu này ngày càng trở nên thiết yếu và trực tiếp tác động đến chất lượng trị liệu cũng
như sự hài lòng của người bệnh.
Nội dung chăm sóc toàn diện:

Chăm sóc y tế.
Chăm sóc thể chất liên quan đến thực hiện các chức năng cơ thể.
Chăm sóc sức khỏe tinh thần.
Chăm sóc sức khỏe về phương diện xã hội.

Mô hình phân công chăm sóc:

Chăm sóc người bệnh toàn diện.
Phân công theo công việc
Chăm sóc theo đội nhóm.
Điều dưỡng ban đầu.

Nghiên cứu học thuyết và các nguyên lý điều dưỡng có vai trò rất quan trọng trong thực
tiển giúp ta hiểu được nền tảng của công tác chăm sóc điều dưỡng
Như: chăm sóc bệnh nhân toàn diện là phát triển của học thuyết Virginia Henderson và
Abdellah’s, phân cấp chăm sóc được dẫn dắt bởi học thuyết Dorothea Orem’s, vệ sinh môi
trường bệnh viện kiễm soát nhiễm khuẩn cũng đã có từ học thuyết Florence Nightingale.
Quy trình điều dưỡng và chẩn đoán điều dưỡng giúp điều dưỡng thực hiện chức năng độc
lập.
16

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
2.5 . Vai trò người điều dưỡng đối với người bệnh.
Bảng 3: Vai trò và chức năng của người điều dưỡng [3]
Vai trò

Chức năng

Người
chăm sóc

Việc chăm sóc người bệnh kết hợp cả nghệ thuật và khoa học điều dưỡng
trong việc đáp ứng các nhu cầu tinh thần, thể chất, tình cảm, văn hóa xã hội
và trí thức với vai trò là một người chăm sóc, người điều dưỡng còn thể hiện
vai trò là người giao tiếp, người thầy giáo, người cố vấn, người lãnh đạo, nhà
nghiên cứu, người bào chữa, để nâng cao cho sức khỏe thông qua những hoạt
động phòng ngừa bệnh tật, giữ gìn sức khỏe và trợ giúp bệnh nhân vượt qua
những khó khăn và cả cái chết. Vai trò chăm sóc là vai trò chính của người
điều dưỡng.

Người
giao tiếp

Phải biết vận dụng các kỹ năng giao tiếp để trị liệu và giao tiếp giữa người
điều dưỡng có hiệu quả để thiết lập và duy trì mối quan hệ tìm hiểu với các
bệnh nhân ở mọi lứa tuổi trong các cơ sở chăm sóc y tế.

Người
giáo dục

Phải biết sử dụng các kỹ năng giao tiếp để tiếp cận, tiến hành, lượng giá kế
hoạch giáo dục cho từng cá nhân nhằm đáp ứng các nhu cầu học hỏi của
người bệnh và gia đình của họ.

Người cố Sử dụng những kỹ năng giao tiếp trị liệu cá nhân để cung cấp thông tin, tham
vấn
vấn thích hợp, trợ giúp giải quyết những khó khăn và giúp người bệnh đưa ra
những quyết định.
Người
lãnh đạo

Phải quả quyết, sự tin khi chăm sóc, đưa ra những thay đổi, làm việc cùng với
nhóm.

Nhà
nghiên
cứu

Tham gia và điều hành nghiên cứu để gia tăng kỹ thuật và cải tiến cách chăm
sóc người bệnh.

Người
bào chữa

Bảo vệ quyền lập pháp của người bệnh và an toàn khi chăm sóc cho tất cả
người bệnh trong cơ sở tin tưởng rằng bệnh nhân có quyền đưa ra quyết định
về sức khỏe và lối sống của họ.

2.6 . Tiêu chuẩn thực hành điều dưỡng lâm sàng
2.6.1 Tiêu chuẩn thực hành điều dưỡng lâm sàng của Hội điều dưỡng Hoa Kỳ [3]
17

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
2.6.1.1. Các tiêu chuẩn chăm sóc
Nhận định: người điều dưỡng thu thập các dữ kiện về sức khỏe của người bệnh.
Chẩn đoán: người điều dưỡng phân tích các dữ kiện thu thập được rồi đưa ra quyết định
chuẩn đoán.
* Xác định chẩn đoán: người điều dưỡng xác định những chẩn đoán có thể có cho người
bệnh.
Lập kế hoạch: người điều dưỡng thiết lập kế hoạch chăm sóc và đưa ra các can thiệp
hướng tới những chẩn đoán đó.
Thực hiện kế hoạch: người điều dưỡng tiến hành những can thiệp được xác định trong
KHCS.
Lượng giá: người điều dưỡng lượng giá những tiến triển của người bệnh qua việc thu nhận
kết quả đã định được.
2.6.1.2. Các tiêu chuẩn hành nghề
Tiêu chuẩn chăm sóc: người điều dưỡng lượng giá một cách có hệ thống chất lượng và
hiệu quả của việc chăm sóc.
Lượng giá công việc: người điều dưỡng lượng giá một cách có hệ thống chất lượng và
hiệu quả của việc chăm sóc. Người điều dưỡng lượng giá công việc của mình dựa vào các
tiêu chuẩn hành nghề và những qui định có liên quan.
Giáo dục: người điều dưỡng củng cố và duy trì kiến thức hiện có vào thực hành điều
dưỡng.
Sự đóng góp: người điều dưỡng đóng góp cho sự phát triển nghề nghiệp cho người đồng
hội, đồng nghiệp, những người khác.
Đạo đức: những quyết định và hành động của người điều dưỡng và quyền lợi của người
bệnh phải là những quyết định có đạo đức.
Sự phối hợp: người điều dưỡng phối hợp với người bệnh, nhân viên y tế trong việc chăm
sóc người bệnh.
Nghiên cứu khoa học: người điều dưỡng ứng dụng những phát hiện trong nghiên cứu vào
thực hành.
Sử dụng nguồn vật lực, tài lực: người điều dưỡng phải tính đến các yếu tố có liên quan
đến sự an toàn, hiệu quả, và chi phí trong hoạch định kế hoạch chăm sóc.
2.6.2 Chuẩn năng lực cơ bản của điều dưỡng Việt Nam [4]
Theo quyết định số: 1352/QĐ-BYT ngày 21 tháng 4 năm 2012 của Bộ Y tế, năng lực cơ
bản điều dưỡng Việt Nam đượccấu trúc thành 3 lĩnh vực, 25 tiêu chuẩn và 110 tiêu chí.
Mỗi lĩnh vực thể hiện một chức năng cơ bản của người điều dưỡng. Trong tài liệu này
được chia thành 3 lĩnh vực là: năng lực thực hành; quản lý chăm sóc và phát triển nghề;
luật pháp và đạo đức điều dưỡng
2.6.2.1 Lĩnh vực 1: Năng lực thực hành chăm sóc
Tiêu chuẩn 1: Thể hiện sự hiểu biết về tình trạng sức khỏe/bệnh tật của các cá nhân, gia
đình và cộng đồng.
Tiêu chuẩn 2: Đưa ra quyết định chăm sóc phù hợp với nhu cầu của các cá nhân, gia đình
và cộng đồng.
18

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
Tiêu chuẩn 3: Xác định ưu tiên chăm sóc dựa trên nhu cầu của người bệnh, gia đình và
cộng đồng.
Tiêu chuẩn 4: Sử dụng quy trình điều dưỡng để lập kết hoạch chăm sóc và can thiệp điều
dưỡng.
Tiêu chuẩn 5: Tạo sự an toàn, thoải mái và kín đáo cho người bệnh.
Tiêu chuẩn 6: Tiến hành các kỹ thuật chăm sóc đúng quy trình.
Tiêu chuẩn 7: Dùng thuốc đảm bảo an toàn hiệu quả.
Tiêu chuẩn 8: Đảm bảo chăm sóc liên tục.
Tiêu chuẩn 9: Sơ cứu và đáp ứng khi có tình huống cấp cứu.
Tiêu chuẩn 10: Thiết lập đước mối quan hệ tốt với người bệnh, gia đình và đồng nghiệp.
Tiêu chuẩn 11: Giao tiếp hiệu quả với người bệnh và gia đình người bệnh.
Tiêu chuẩn 12: Sử dụng hiệu quả các kênh truyền thông và phương tiện nghe nhìn trong
giao tiếp với người bệnh và gia đình người bệnh.
Tiêu chuẩn 13: Cung cấp các thông tin cho người bệnh, người nhà về tình trạng sức khỏe
hiệu quả và phù hợp.
Tiêu chuẩn 14: Xác định nhu cầu và tồ chức hướng dẫn, giáo dục sức khỏe cho cá nhân,
gia đình, cộng đồng.
Tiêu chuẩn 15: Hợp tác tốt với các thành viên nhóm chăm sóc.
2.6.2.2 Lĩnh vực 2: Năng lực quản lý và phát triển nghề nghiệp.
Tiêu chuẩn 16: Quản lý, ghi chép sử dụng hồ sơ bệnh án theo quy định.
Tiêu chuẩn 17: Quản lý công tác chăm sóc người bệnh.
Tiêu chuẩn 18: Quản lý, vận hành và sử dụng các trang thiết bị y tế có hiệu quả.
Tiêu chuẩn 19: Sử dụng nguồn tài chính thích hợp để chăm sóc người bệnh hiệu quả.
Tiêu chuẩn 20: Thiết lập môi trường làm việc an toàn và hiệu quả.
Tiêu chuẩn 21: Cải tiến chất lượng chăm sóc và quản lý nguy cơ trong môi trường chăm
sóc.
Tiêu chuẩn 22: Nghiên cứu khoa học và thực hành dựa vào bằng chứng.
Tiêu chuẩn 23: Duy trì và phát triển năng lực cho bản thân và đồng nghiệp.
2.6.2.3. Lĩnh vực 3: Năng lực hành nghề theo pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.
Tiêu chuẩn 24: Hành nghề theo quy định của pháp luật.
Tiêu chuẩn 25: Hành nghề theo tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp.
2.7 . Vai trò của điều dưỡng trong hiệu quả trị liệu
2.7.1 Thế nào là hiệu quả trị liệu?
19

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
Theo tự điển tiếng việt “hiệu quả” là quan hệ giữa kết quả đạt được và nguồn lực được sử
dụng.
Hiệu quả trị liệu được đề cập ở đây là kết quả của quá trình can thiệp Y tế trên người bệnh
nhầm giải quyết vấn đề về sức khỏe do yêu cầu từ phía người bệnh hay do nhận định từ
nhân viên Y tế. Để có hiệu quả tốt người cán bộ Y tế phải cân nhắc, tỉ mỉ, cẩn thận trong
mọi quyết định Y khoa trên người bệnh từ khâu chẩn đoán, can thiệp, điều trị, chăm sóc,
hạn chế tối đa sai sót cũng như chi phí điều trị, thời gian điều trị. Nhà quản lý Y tế phải tổ
chức các khâu phục vụ đảm bảo liên hoàn thuận lợi, an toàn cho người bệnh, xây dựng
đội ngủ Y tế có trình độ chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp tốt, trang bị những thiết
bị Y tế đầy đủ.
2.7.2 Những hiệu quả trị liệu mang lại cho người bệnh.
Hiệu quả trị liệu ở đây được hiểu theo quan điểm toàn diện. Điều đó có nghĩa, hiệu quả trị
liệu không chỉ đơn thuần là việc chữa trị người bệnh khỏi hay thuyên giảm bệnh hiện có,
một cách kinh tế nhất mà còn phải mang lại cho người bệnh những hiệu quả khác về mặt
sức khỏe như:

Trạng thái tâm lý bình an,

Hạn chế các chứng bệnh Y sinh,

Tầm soát những vấn đề sức khỏe tiềm ẩn,

Cho bệnh nhân một số kiến thức phòng bệnh và tự chăm sóc,

Tạo sự gắn bó giữa nhân viên Y tế và người bệnh.
2.7.3 Vai trò người điều dưỡng đối với hiệu quả trị liệu.
Người Điều dưỡng góp phần to lớn đối với hiệu quả trị liệu, điều này đã được nhìn nhận
một cách hiển nhiên, bởi lẽ điều dưỡng là lực lượng đông đảo trong hệ thống Y tế, chiếm
tỉ lệ trên 50% họ có mặt ở mọi nơi từ cộng đồng đến các cơ sở Y tế nhất là bệnh viện, thời
gian mà họ có mặt bên người bệnh là 24/24, số lượng công việc mà họ đảm nhận khổng
lồ, ở một khía cạnh nào đó họ được xem là bộ mặt của bệnh viện, họ được giao những
trọng trách làm nên hiệu quả điều trị. Tại các nước phát triển Anh, Mỹ, Canada,… cũng
như các nước đang phát triển như Thái Lan, Philippines, Malaysia,…Điều dưỡng viên đã
được nâng cấp vai trò trong việc quản lý các cơ sở y tế ban đầu, bệnh viện, trung tâm
chăm sóc sức khỏe, tham giá khám và điều trị – chăm sóc các bệnh cấp và mãn tính theo
chuyên ngành của điều dưỡng và có mặt ở hầu hết các lĩnh vực khác và là một trong
những nghề được kính trọng nhất hiện nay. Đã có những bệnh viện, trung tâm chăm sóc
sức khỏe điều dưỡng là Giám đốc, phó Giám đốc và họ đã làm tốt vai trò của mình cũng
như phát triển tốt bệnh viện và cơ sở họ quản lý. Ở nước ta, đã có điều dưỡng là vụ phó
Vụ điều trị, là phó Giám đốc bệnh viện. Ngoài ra Bộ y tế, Vụ điều trị, Hội điều dưỡng,
Phòng điều dưỡng của Bộ, Sở, các bệnh viện và các trường đào tạo điều dưỡng đã nổ lực
huấn luyện đào tạo, biên soạn tài liệu, ra các thông tư chỉ thị, chính sách, thúc đẩy điều
dưỡng đóng góp vào hiệu quả trị liệu, thể hiện qua:
 Quy chế chăm sóc bệnh nhân toàn diện trong quy chế bệnh viện, quyết định số
1985/1977/BYT – QĐ ngày 19/9/1977
20

– Xem thêm –