TTWTO VCCI – (WTO) Thương mại dịch vụ – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

GS.TS. Hồ Văn Tĩnh – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

I. Một số khái niệm về thương mại, dịch vụ

Trong khuôn khổ của GATT/WTO, tại vòng đàm phán Uruguay diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994, các nước thành viên của GATT đã thông qua Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (General Agreement on Trade in Services, viết tắt là GATS). Hiệp định được thiết lập nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của hệ thống thương mại đa phương sang lĩnh vực dịch vụ chứ không điều chỉnh một mình lĩnh vực thương mại hàng hóa như trước đó. Đối với nước ta, thương mại dịch vụ là một thuật ngữ còn khá mới mẻ. Trong quan niệm hiện đại, cơ cấu kinh tế quốc dân được chia ra ba khu vực chính, đó là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Theo Hệ thống kế toán quốc gia (SNA) thì nền kinh tế nước ta có 20 ngành cấp 1, trong đó nông nghiệp có 2 ngành (nông nghiệp và thủy sản), công nghiệp có 4 ngành (công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, sản xuất và cung cấp điện và nước và ngành xây dựng), còn dịch vụ có tới 14 ngành, có những ngành khá quen thuộc như thương mại, du lịch, vận tải, ngân hàng, thông tin liên lạc…, nhưng cũng có những ngành mới xếp vào lĩnh vực dịch vụ như giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, hoặc như hoạt động của các đoàn thể xã hội… Dịch vụ là một khái niệm rất rộng, từ việc đáp ứng nhu cầu cá nhân đến việc phục vụ cho một ngành sản xuất, là một ngành kinh tế độc lập, hiện nay đang chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân và không ngừng được tăng cao.

Như vậy, có thể hiểu dịch vụ là toàn bộ các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người mà sản phẩm của nó tồn tại dưới hình thái phi vật thể.

Việc coi các ngành sự nghiệp như giáo dục, y tế, văn hóa…thuộc khu vực dịch vụ và được hạch toán trong hệ thống kinh tế quốc dân có thể đuợc lý giải dưới bốn góc độ: Thứ nhất, trong nền kinh tế thị trường, mọi sản phẩm đều là hàng hóa, mọi hoạt động đều là kinh doanh, mà kinh doanh là bỏ vốn ra để thu được lợi ích nhất định. Các ngành giáo dục-đào tạo, y tế, văn hóa…muốn hoạt động được cần đầu tư vốn và kết quả mang lại là sự phát triển toàn diện của con người, lợi ích đó còn giá trị hơn nhiều so với lợi nhuận mà một nhà kinh doanh hàng hóa vật thể đem lại. Người làm giáo dục, y tế, văn hóa cũng phải biết tính toán lỗ lãi, thiệt hơn. Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, tư nhân được quyền hoạt động giáo dục, khám chữa bệnh, lập các đoàn nghệ thuật, đoàn làm phim thì mục đích không phải chủ yếu là phục vụ không công cho xã hội mà mục đích là thu lợi, trực tiếp là lợi nhuận, tức là kinh doanh, tất nhiên nếu không đạt được mục tiêu xã hội thì cũng không thể kinh doanh được. Thứ ba, trong các ngành sự nghiệp như giáo dục, y tế, văn hóa đều có các doanh nghiệp, mà đã là doanh nghiệp tất yếu phải kinh doanh, như Công ty thiết bị trường học, Công ty dược, Nhà xuất bản… là các doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh; còn các trường học, bệnh viện, đoàn nghệ thuật, câu lạc bộ bóng đá cũng có thể coi là doanh nghiệp. Thứ tư, những người được phục vụ nói chung đều phải trả tiền, phải tính toán thiệt hơn để thụ hưởng sự phục vụ có hiệu quả nhất.

Thương mại là một ngành kinh tế độc lập mà hoạt động của nó là mua, bán hàng hóa và dịch vụ. Luật thương mại quốc tế lại coi hoạt động đầu tư, tín dụng và chuyển giao công nghệ cũng là hoạt động thương mại. Trong ngành thương mại có ba lĩnh vực chính, đó là thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và thương mại đầu tư, trong đó thương mại dịch vụ là hoạt động mua bán các loại dịch vụ. Trong hoạt động thương mại lại có các loại hoạt động hỗ trợ như xúc tiến thương mại, dịch vụ thương mại. Dịch vụ thương mại là các dịch vụ phục vụ cho việc mua bán hàng hóa và dịch vụ, như maketing chẳng hạn.

II. Nội dung của thương mại dịch vụ

a- Ban Thư ký WTO phân thương mại dịch vụ thành 12 khu vực bao gồm:

1. Dịch vụ kinh doanh,

2. Dịch vụ thông tin,

3. Dịch vụ xây dựng và kỹ thuật,

4. Dịch vụ kinh tiêu,

5. Dịch vụ đào tạo,

6. Dịch vụ môi trường,

7. Dịch vụ tài chính,

8. Dịch vụ liên quan đến sức khỏe và xã hội,

9. Dịch vụ du lịch và các hoạt động có liên quan,

10. Dịch vụ giải trí, văn hóa, thể thao,

11. Dịch vụ vận tải,

12. Các dịch vụ khác.

Từ 12 khu vực trên đây lại chia thành 155 tiểu khu vực. Theo GATS thương mại dịch vụ bao gồm các dịch vụ ở bất kỳ khu vực nào trừ dịch vụ do yêu cầu của chính phủ, là những dịch vụ không dựa trên kinh doanh hoặc cạnh tranh.

Thương mại dịch vụ là một bộ phận hợp thành của thương mại quốc tế, nó liên quan đến hoạt động thương mại vượt qua biên giới quốc gia, theo các phương thức chủ yếu sau đây:

-Phương thức1: Thương mại dịch vụ giữa các nước, tức là mua bán dịch vụ qua biên giới giữa các nước, có thể bằng viễn thông hoặc chuyển dịch vụ bằng hiện vật như bản vẽ, băng đĩa…

 

-Phương thức 2: Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài, tức là khách hàng đi sang nước khác để tiêu dùng dịch vụ như đi du lịch, học tập; sửa chữa tàu biển, máy bay ở nước ngoài…

-Phương thức 3: Hiện diện thương mại, tức là đầu tư trực tiếp để thành lập một chi nhánh, công ty con hay đại lý để cung cấp dịch vụ như cung cấp thông tin, tư vấn pháp luật, ngân hàng cho nước sở tại…

-Phương thức 4: Hiện diện của thể nhân, tức là sự di chuyển tạm thời của cá nhân sang nước khác để cung cấp các dịch vụ như tư vấn, xây dựng, làm nội trợ, chăm sóc sức khỏe…

Trong bốn phương thức trên đây thì phương thức 3 – Hiện diện thương mại có vị trí quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại dịch vụ, đây là hình thức hoạt động thông qua liên doanh, chi nhánh hoặc công ty 100% vốn nước ngoài (FDI) để cung cấp dịch vụ trong nước (ngoại trừ dịch vụ du lịch và vận chuyển), thứ đến là phương thức 1 – Thương mại dịch vụ giữa các nước. Phương thức 2 – Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài có vị trí quan trọng trong du lịch quốc tế. Phương thức 4 – Hiện diện thể nhân có tỷ trọng không đáng kể trong thương mại dịch vụ, nhưng đối với các nước đang phát triển như nước ta cũng rất quan trọng trong việc xuất khẩu lao động và thuê chuyên gia nước ngoài.

b- Thương mại dịch vụ có một số đặc điểm:

Thứ nhất: Dịch vụ là loại sản phẩm vô hình, không sờ mó, nhìn thấy được nhưng lại được cảm nhận qua tiêu dùng trực tiếp của khách hàng. Quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm dịch vụ diễn ra đồng thời, nhưng hiệu quả của dịch vụ đối với người tiêu dùng lại rất khác nhau. Có loại xẩy ra tức thì, nhưng có loại chỉ đem lại hiệu quả sau nhiều năm, chẳng hạn dịch vụ giáo dục phải sau 5-10 năm mới có thể đánh giá đầy đủ. Do đó, việc đánh giá hiệu quả thương mại dịch vụ phức tạp hơn so với thương mại hàng hóa.

Thứ hai: Thương mại dịch vụ có phạm vi hoạt động rất rộng, từ dịch vụ cho tiêu dùng cá nhân đến dịch vụ sản xuất, kinh doanh, quản lý trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân, thu hút đông đảo người tham gia với trình độ cũng rất khác nhau, từ lao động đơn giản như giúp việc gia đình, bán các hàng lưu niệm ở khu du lịch đến lao động chất xám có trình độ cao như các chuyên gia tư vấn, chuyên gia giáo dục…, do đó đây là một lĩnh vực có nhiều cơ hội phát triển và tạo được nhiều công ăn việc làm, rất có ý nghĩa về kinh tế – xã hội ở nước ta hiện nay.

Thứ ba: Thương mại dịch vụ hiện nay đang có sự lan tỏa rất lớn, ngoài tác dụng trực tiếp của bản thân dịch vụ, nó còn có vai trò trung gian đối với sản xuất và thương mại hàng hóa, nên phát triển thương mại dịch vụ có ảnh hưởng gián tiếp lên tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân, do đó tác dụng của thương mại dịch vụ là rất lớn. Người ta tính rằng, nếu thương mại dịch vụ được tự do hóa thì lợi ích của nó còn cao hơn thương mại hàng hóa hiện nay và xấp xỉ bằng lợi ích thu được khi tự do hóa thương mại hàng hóa hoàn toàn cho cả hàng hóa nông nghiệp và hàng hóa công nghiệp.

Thứ tư: Thương mại dịch vụ khi lưu thông qua biên giới gắn với từng con người cụ thể, chịu tác động bởi tâm lý, tập quán, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ và cá tính của người cung cấp và người tiêu dùng dịch vụ, điều này khác với thương mại hàng hóa, sản phẩm là vật vô tri vô giác, đi qua biên giới có bị kiểm soát nhưng không phức tạp như kiểm soát con người trong thương mại dịch vụ, vì thế mà thương mại dịch vụ phải đối mặt nhiều hơn với những hàng rào thương mại so với thương mại hàng hóa. Các cuộc thương lượng để đạt được tự do hóa thương mại dịch vụ thường gặp nhiều khó khăn hơn tự do hóa thương mại hàng hóa, nó còn phụ thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế – xã hội, văn hóa của nước cung cấp và nước tiếp nhận dịch vụ đó.

 

c- Các nguyên tắc của thương mại dịch vụ.

Hoạt động thương mại dịch vụ nói chung phải theo các nguyên tắc cơ bản của WTO đối với thương mại hàng hóa, nhưng có sự vận dụng linh hoạt đối với các nước đang phát triển và đặc điểm kinh tế – xã hội của từng quốc gia. Các nguyên tắc cơ bản của WTO bao gồm:

– Nguyên tắc không phân biệt đối xử, gồm hai quy chế: Đãi ngộ tối huệ quốc và Đối xử quốc gia.

– Nguyên tắc tiếp cận thị trường, bao gồm hai khía cạnh: Một là, các nước thành viên mở cửa thị trường cho nhau thông qua việc cắt giảm từng bước, tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, mở đường cho thương mại phát triển; hai là, các chính sách, luật lệ thương mại phải được công bố công khai, kịp thời, minh bạch để có thể dự báo được môi trường và triển vọng thương mại.

– Nguyên tắc cạnh tranh công bằng, đòi hỏi các nước thành viên WTO loại bỏ bảo hộ bằng các biện pháp phi thuế, vì nó làm “méo mó thương mại” như hạn ngạch, giấy phép, hạn chế số lượng nhập khẩu…mà chỉ sử dụng công cụ duy nhất là thuế, nhưng các biểu thuế phải được giảm dần trong quá trình hội nhập.

 

– Nguyên tắc áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, cho phép các nước thành viên khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc có những hành động khẩn cấp, cần thiết, được các nước thành viên khác thừa nhận để bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước khi bị hàng nhập khẩu thái quá đe dọa hoặc bị phân biệt đối xử gây phương hại cho nước đó.

– Nguyên tắc ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển, nhằm tạo điều kiện cho các nước này từng bước thích nghi với các thể chế của WTO như kéo dài thời gian hoặc giảm mức độ thực hiện các cam kết.

Nói chung, khi đã là thành viên của WTO thì các nguyên tắc cơ bản trên đây phải được tuân thủ cả trong thương mại hàng hóa và trong thương mại dịch vụ. Nhưng do những đặc điểm của thương mại dịch vụ luôn gắn với các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, truyền thống dân tộc, an ninh quốc gia nên việc thực hiện các nguyên tắc này theo hướng tự do hóa còn nhiều hạn chế. Do đó, các nước đang phát triển được hưởng những “ưu tiên” khi thực hiện GATS nhằm khuyến khích các nước này phát triển kinh tế, từng bước thích nghi với điều kiện và nguyên tắc của WTO và giúp các nước mới gia nhập WTO cải cách kinh tế ở nước mình.

III- Tiếp cận thương mại dịch vụ theo hướng hiện đại

Lâu nay, nước ta đã mở quan hệ dịch vụ với nhiều nước như du lịch quốc tế, xuất khẩu lao động kể cả chuyên gia, thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển dịch vụ, phát triển viễn thông quốc tế… và thu được nhiều ngoại tệ đáng kể cho nền kinh tế. Theo Tổng cục Thống kê, riêng xuất khẩu dịch vụ năm 2001 đạt 2,81 tỉ USD, năm 2004 đạt 5,073 tỉ USD, năm 2005 dự kiến đạt 5,6 tỉ USD và đến năm 2010 dự kiến đạt 8 tỉ USD. Nghị quyết 07- NQ/TW của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế đã đề ra nhiệm vụ thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại hình thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, khoa học – công nghệ, vốn, bất động sản…, tức là đã đề cập tới thị trường dịch vụ. Luật Thương mại được Quốc hội khóa 11 thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 14/6/2005 đã có một chương (chương III) nói tới Cung ứng dịch vụ, trong đó có nhiều điều khoản nói tới cung ứng dịch vụ trong quan hệ quốc tế, tức là thương mại dịch vụ theo quy định của WTO.

Nước ta sắp trở thành thành viên chính thức của WTO, việc thực thi các điều khoản của Tổ chức thương mại thế giới lớn như thế này là điều bắt buộc, trong đó kể cả GATS. Trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, việc phát triển thương mại dịch vụ là phù hợp với xu thế chung của thời đại. Hiện nay, tỷ trọng dịch vụ trong GDP của các nước đã tăng lên đến 60-70%, trong khi ở nước ta ước đạt 38,5% năm 2005. Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên phong phú, con người thông minh và năng động, chính trị ổn định là tiềm năng to lớn cho phát triển thương mại dịch vụ, có sức cạnh tranh tương đối cao trong khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, những thách thức và khó khăn không nhỏ, chủ yếu là khả năng thích nghi với nguyên tắc của WTO nói chung và của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ còn hạn chế, cả trong doanh nghiệp cũng như trong quản lý nhà nước.

 

Để phát huy tiềm năng, khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách trong hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia đầy đủ các điều khoản của GATS nhằm phát triển mạnh thương mại dịch vụ cần thực hiện một số giải pháp chính sau đây:

Một là, đổi mới và nâng cao nhận thức về thương mại dịch vụ. Ngày nay, xu thế chung của thế giới cơ cấu kinh tế đang chuyển mạnh sang phát triển dịch vụ, giảm tỷ trọng giá trị nông nghiệp, giá trị công nghiệp. Đối với nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nhất thiết phải tăng tỷ trọng công nghiệp cả về giá trị và lao động. Nhưng phát triển công nghiệp có bốn trở ngại lớn, đó là vốn lớn, lao động và công nghệ đòi hỏi trình độ cao, quản lý phức tạp, sức cạnh tranh thấp; trong khi phát triển dịch vụ thì bốn trở ngại đó không đến nỗi gay gắt như trong công nghiệp. Như vậy, chuyển dịch lao động nông nghiệp sang ngành dịch vụ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn. Thời gian qua, nhiều địa phương phát triển công nghiệp nông thôn, đầu tư khá lớn nhưng sản phẩm hàng hóa làm ra do chất lượng thấp, giá thành cao, không thể cạnh tranh với sản phẩm do công nghiệp lớn trong nước sản xuất và hàng ngoại nhập với giá rẻ nên phải chịu lỗ và nhiều nơi bị thất bại. Trong khi đó, một số địa phương làm tốt công tác xuất khẩu lao động đã tạo công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho địa phương. Như vậy, về mặt nhận thức cần nhận rõ vai trò của ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế ở nước ta. Thương mại dịch vụ của WTO chủ yếu là quan hệ thương mại quốc tế, nhưng trong xu thế toàn cầu hóa thì sự phân biệt trong nước và nước ngoài chỉ có tính tương đối, do đó mọi hoạt động dịch vụ trong nước cũng phải từng bước tiếp cận và thích nghi với thương mại dịch vụ trong quan hệ quốc tế.

Hai là, tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để thích nghi với Hiệp định chung về thương mại dịch vụ. Để từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, cần quan tâm một số chính sách sau đây:

– Về chính sách cơ cấu kinh tế, cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng khai thác hợp lý và có hiệu quả tiềm năng và lợi thế sánh của từng vùng, từng địa phương chú trọng phát triển mạnh ngành dịch vụ. Phát triển dịch vụ và thương mại dịch vụ góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời khắc phục tình trạng phân tán, manh mún, năng suất thấp và thiếu bền vững của nông nghiệp hiện nay. Cần nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, xóa bỏ tình trạng độc quyền trong kinh doanh của một số doanh nghiệp thuộc kinh tế nhà nước, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.

– Đối với các chính sách kinh tế khác, đặc biệt là chính sách thương mại, cần nhanh chóng đổi mới để phù hợp với quy chế của GATS, trong đó đặc biệt tôn trọng nguyên tắc minh bạch , đảm bảo cho mọi cơ chế, chính sách của Nhà nước cũng như của doanh nghiệp được công khai, rõ ràng, kịp thời. Đó không chỉ là nguyên tắc quan trọng trong quan hệ quốc tế mà còn là quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là giải pháp hữu hiệu để phòng và chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

Ba là, tạo lập môi trường thuận lợi phát triển thương mại dịch vụ. Môi trường để phát triển kinh tế nói chung và cho thương mại dịch vụ nói riêng là một hệ thống gồm nhiều loại, bao gồm môi trường: chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, pháp luật, thông tin, sinh thái…, chúng có quan hệ tác động lẫn nhau, hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm nhau và phụ thuộc chủ yếu bởi hệ thống chính sách đã nêu trên đây. Đối với thương mại dịch vụ, nếu có một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, pháp luật nghiêm minh phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế thì sẽ khuyến khích làm giàu hợp pháp đi liền với xóa đói giảm nghèo, giảm bớt bất công, chống tham nhũng, lãng phí, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển thương mại dịch vụ. Đặc biệt, trong thương mại dịch vụ phải rất coi trọng xây dựng môi trường văn hóa – xã hội, môi trường sinh thái để thu hút khách quốc tế đến nước ta.

Bốn là, coi trọng phát huy nhân tố con người trong phát triển thương mại dịch vụ. Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội và ở bất cứ giai đoạn nào thì nhân tố con người vẫn giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên, khác với thương mại hàng hóa, ở đó, quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng là gián tiếp thông qua hàng hóa vật thể, trong thương mại dịch vụ, quan hệ giữa người cung ứng dịch vụ và người tiêu dùng dịch vụ nói chung là trực tiếp, do đó vai trò của nhân tố con người càng quan trọng hơn. Con người trong thương mại dịch vụ rất đa dạng về nghề nghiệp và trình độ, nhưng nói chung đều phải có tâm, có đức, có tài. Một người đi làm ở nước ngoài tuy là lao động giản đơn nhưng cũng phải biết ngoại ngữ, hiểu biết tâm lý, phong tục tập quán của nước sở tại, biết cách ứng xử lịch thiệp, giữ đúng quan hệ. Một chuyên gia đi phục vụ ở nước ngoài cần có trình độ uyên thâm, có phẩm chất đạo đức trong sáng, là tấm gương để nước ngoài nhìn nhận và đánh giá trí thức của Việt Nam. Sau khi trở thành thành viên của WTO và để phát triển thương mại dịch vụ thì con người Việt Nam nói chung phải có một sự thay đổi lớn về chất để có thể thích nghi với điều kiện mới.

Nguồn: Tạp chí Cộng sản số 108 năm 2006