Sao Thiên Cơ – Tác Sự Hữu Thao Lược – Bẩm Tính Tối Cao Minh
Sao Thiên Cơ chủ sự khéo léo tinh xảo trong nghề nghiệp, đặc biệt khi đi cùng những bộ sao như Thiên Lương, Tả Hữu thì càng trở nên thao lược, quyền biến.
Cơ Nguyệt Thiên Lương hợp Thái Dương.
Thường nhân phú túc trí điền trang.
Quan viên đắc ngộ Khoa Quyền Lộc.
Chức vị cao thiên diện Đế Vương.
Ý Nghĩa Sao Thiên Cơ
Sao Thiên Cơ là 1 trong 14 Chính Tinh & là sao thứ 2 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Sao Tử Vi, Sao Thiên Cơ, Sao Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.
Đây là một bài viết rất dài về Sao Thiên Cơ. Trong trường hợp bận rộn. Các bạn chỉ cần đọc phần ghi chú dưới đây là hiểu bản chất của Thiên Cơ Tinh. Trường hợp cần nghiên cứu chuyên sâu, thì nên đọc kỹ cả bài viết để hiểu rõ hơn về Thiên Cơ trong các trường hợp phối chiếu…
Sao Thiên Cơ là sao chuyên về học thuật, cơ mưu và tính toán. Nên trường hợp Thiên Cơ miếu vượng thì đương số có bản tính rất thông minh.
Cơ Lương hội hợp, thiện đàm binh
Cư Tuất diệc vi mỹ luận
Một trong những cách nổi trội của Thiên Cơ là khi đi cùng với Sao Thiên Lương. Trường hợp này, cổ nhân có phê là thiện đàm binh. Tức là người giỏi về bàn định chiến lược chiến thuật. Trường hợp hội hợp ở cung Tuất vẫn gọi là Cát (Tốt).
Tuy nhiên, để thành đạt. Thiên Cơ còn cần gặp được Xương Khúc, Khôi Việt và nhóm văn quý tinh trợ thủ
Xét riêng về quan hệ bạn hữu, nếu hội được Tả Hữu thì là người cực kỳ quảng bác, giao lưu rộng rãi.
Thiên Cơ đóng vai trò mưu sĩ, tính tình thanh cao sáng suốt, minh mẫn nhưng sức mạnh không có. Vì vậy kỵ gặp các sao hung sát tinh. Ví dụ bộ lục sát: Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp, dễ gây họa cho Thiên Cơ
Ngoài ra Thiên Cơ còn kiêng gặp bộ Binh Hình Tướng Ấn chủ về hình cụ. Thiên Cơ là kẻ mưu sỹ trói gà không chặt mà nay lại sa vào tù đày…
Gặp riêng hình kỵ thì thiên nghi tăng đạo – dễ say mùi đạo mà quên đi chốn quan trường. Người Thiên Cơ vốn dĩ giỏi tính toán. Nên khi môi trường hoàn cảnh không thuận lợi. Sự tính toán đó dễ trở nên huyễn hoặc. Chính vì vậy dễ say mùi đạo
Nữ nhân gặp Thiên Cơ miếu vượng là người khéo léo, vượng phu ích tử. Tuy nhiên nếu không hội hợp được các cách tốt, dễ rơi vào trường hợp khéo quá hóa xảo.
Thiên Cơ ưa sống nội tâm, không thích cảnh bon chen, đắc cách thì nhiều râu nhiều tóc, dáng thanh cao
Thiên Cơ là ích thọ chi tinh, thủ thân mệnh cung là người dị thường. Gia hội thêm Thiên Lương, Tả Hữu Xương Khúc làm quan văn thì thanh hiển, làm vũ chức thì trung lương
Hãm địa gặp tứ sát xung phá là hạ cách nên rất sợ Kình Đà Không Kiếp
Thiên Cơ ngộ Thiên Lương gia thêm Thất Sát thì nên tìm đến cảnh thanh nhàn của tăng đạo
Đại tiểu hạn gặp Thiên Cơ thì sẽ thay đổi công việc, lập cơ sáng nghiệp khi miếu vượng và hội cùng Thiên Lương
Thiên Cơ Huynh Đệ Chủ
Nam Đẩu Chính Diệu Tinh
Tác Sự Hữu Thao Lược
Bẩm Tính Tối Cao Minh
Sở Vi Tối Hảo Thượng
Diệc Khả Tác Quần Anh
Thiên Cơ hóa khí là Thiện tinh (Thiện ở đây là thiện nghệ – giỏi nghề). Chủ về sự khéo léo giỏi giang. Là thần cai quản cung Huynh Đệ
-
Nhóm: Nam Đẩu Tinh
-
Tính: Âm
-
Hành: Mộc
-
Hóa Khí: Thiện Tinh
-
Đặc Tính: Huynh đệ, phúc thọ, chủ sự khéo léo, giỏi tính toán
-
Tên gọi tắt thường gặp: Cơ
Vị Trí Miếu Hãm Ở Các Cung
-
Miếu địa ở các cung Thìn, Tuất, Mão, Dậu.
-
Vượng địa ở các cung Tỵ, Thân.
-
Đắc địa ở các cung Tý, Ngọ, Sửu, Mùi.
-
Hãm địa ở các cung Dần, Hợi.
Mệnh Thiên Cơ – Sao Thiên Cơ Thủ Mệnh
Ca quyết:
Thiên cơ huynh đệ chủ, Nam Đẩu chính diệu tinh
Tác sự hữu thao lược, bẩm tính tối cao minh
Sở vi tối hảo thượng, diệc khả tác quần anh
Hội cát chủ hưởng phúc, nhập cách cư hàn lâm
Cự môn đồng nhất vị, võ chức áp biên đình
Diệc yếu quyền phùng sát, phương khả lập công danh
Thiên lương tinh đồng vị, định tác đạo dữ tăng
Nữ nhân nhược phùng thử, tính xảo tất dâm bôn
Thiên đồng dữ Xương Khúc, tụ củng chủ hoa vinh
Thìn Tuất Tý Ngọ địa, nhập miếu hữu công danh
Nhược tại Dần Mão Thìn, Thất sát tịnh Phá quân
Huyết quang tai bất trắc, Kình Đà cập Hỏa Linh
Nhược dữ chư sát hội, tai hoạn hữu ách kinh
Vũ ám Liêm Phá hợp, lưỡng mục thiểu quang minh
Nhị hạn lâm thử tú, sự tất hữu biến canh.
Thiên Cơ Nam mệnh ca
Cơ Nguyệt Thiên Lương hợp Thái Dương.
Thường nhân phú túc trí điền trang.
Quan viên đắc ngộ Khoa Quyền Lộc.
Chức vị cao thiên diện Đế Vương.
Thiên Cơ Nữ mệnh ca
Thiên Cơ nữ mệnh cát tinh phù
Tác sự thao trì quá trượng phu
Quyền lộc cung trung phùng thủ chiếu
Vinh ưng cáo mệnh quý như hà.
Nữ mệnh có Sao Thiên Cơ thủ Mệnh và cát tinh phụ chiếu là người hành động tài giỏi, vững chắc hơn cả đấng mày râu. Nếu lại được Quyền, Lộc đồng cung hoặc chính chiếu tất được phong tặng, vinh hiển và quý giá biết bao?
Tướng Mạo
Cung Mệnh có Thiên Cơ đắc địa thì thân hình cao, xương lộ, da trắng, mặt dài nhưng đầy đặn. Nếu hập miếu thì béo mập, ánh mắt linh hoạt, dáng vẻ đoan chính, diện mạo dễ gần lương thiện, có lễ nghĩa, lời nói nho nhã, cử chỉ lịch sự. Thiên Cơ hãm địa thì thân hình hơi gầy, hơi thấp.
Nếu là mệnh nữ thường có dung mạo xinh đẹp, biết cách trang phục dễ coi, được lòng người, tính cởi mở. Nếu sao Thiên Cơ miếu, vượng thì tính cách khôn khéo, có quyền bính, vượng chồng lợi con. Nếu lại được Hóa Quyền, Hóa Lộc (hoặc có Lộc tồn) thì là quý phụ. Thiên Cơ rơi vào thế hãm địa, gặp tứ Sát, sao Hóa Kị xung phá, thì chủ về cô độc, tàn tật, không cát lợi.
Tính Tình
Thiên Cơ đắc địa là người nhân hậu, từ thiện, rất thông minh, khôn ngoan, có óc xét đoán, có nhiều mưu trí. Làm việc gì đều có chiến lược, chiến thuật hẳn hoi. Thiên Cơ đắc địa là vì sao phúc hậu, chỉ người vừa có tài vừa có đức. Một đặc điểm hiếm có của con người. Có óc kinh doanh, biết quyền biến, tháo vát, có hoa tay, khéo léo về chân tay như họa, may, giải phẫu. Nếu đi liền với các bộ sao của những nghề này thì đó là những họa sĩ giỏi, nhà may khéo, giải phẫu có tiếng
Thiên Cơ khi lạc hãm thì tuy thông minh, cơ trí nhưng mọi toan tính đều không thành. Dễ trở nên yếm thế, không thích bon chen, tranh giành, mất đi ý chí phấn đấu. Thiên Cơ lại là sao có tính trí tuệ, thanh cao, ưa việc thiện. Nên khi lạc hãm mất đi uy lực thì dễ nghiêng sang hướng tu hành, thành tăng đạo để hưởng thanh nhàn.
Thiên Cơ khi hội sát tinh thì dễ trở thành kẻ bất lương, gian trá.
Nếu Thiên Cơ đắc địa:
-
Nhân hậu, từ thiện
-
Rất thông minh, khôn ngoan
-
Có nhiều mưu trí, hay bàn về chính lược, chiến lược.
Nếu Thiên Cơ hãm địa:
-
Kém thông minh
-
Có óc kinh doanh
-
Đa mưu, gian xảo
-
Đa dâm (đối với phái nữ), bất chính
-
Ghen tuông
Riêng Thiên Cơ bảo đảm năng khiếu về thủ công, dù có hãm địa hay bị sát hung tinh xâm phạm, năng khiếu đó cũng không giảm.
Công Danh Tài Lộc Phúc Thọ
Thiên Cơ đắc địa thì được hưởng giàu sang và sống lâu, nhất là khi hội tụ với nhiều cát tinh. Đặc biệt ở Thìn, Tuất thì khả năng nghiên cứu rất cao, nhất là trong ngành chính trị, chiến lược, tham mưu giỏi. Ở Mão Dậu, đồng cung với Cự Môn, người đó có tài tham mưu, kiêm nhiệm cả văn lẫn võ. Tài năng và phú quý rất hiển hách. Riêng với người nữ thì đảm đang, khéo léo, lợi chồng ích con, được hưởng phú quý và phúc thọ song toàn.
Nếu Thiên Cơ hãm địa thì lận đận, bôn ba, làm nghề thủ công. Riêng với người nữ thì vất vả, muộn gia đạo, hoặc gặp nghịch cảnh chồng con, đau đớn vì tình. Nếu gặp sát tinh như Hóa Kỵ, Thiên Hình, thì tai họa, bệnh tật rất nặng và chắc chắn không thọ.
Do Thiên Cơ có tính chất của mưu thần, nên nó thích dựa dẫm quyền quý. Ở cung hai cung Thân hoặc Dần, được Tử Vi, Tham Lang và Thiên Phủ giáp cung, trong các tình hình thông thường thì có lợi đối với Thiên Cơ. Nó cũng ưa gặp Thiên Khôi, Thiên Việt đồng cung hoặc đối chiếu, trường hợp này gọi là “cuộc đời gần gũi bậc quyền quý”.
Nếu Thiên Cơ gặp Cự Môn được Thái Dương miếu vượng chiếu xạ, thì gọi là “Thiên Khuyết” (cổng trời). Nếu Thiên Cơ tương xung với “Thiên Khuyết”, thì giống như mưu thần được trọng dụng, có thể lên triều diện kiến thiên tử, cũng chủ về người đắc chí, có thể thi thố ở đời.
Cho nên luận đoán đại cương về sao Thiên Cơ, trước tiên cần phải xem mức độ thông minh, cơ trí, mẫn tiệp của nó, sau đó xem nó có được gần gũi bậc quyền quý không, có cơ hội thi thố ở đời không.
Trong “Tứ Hóa”, Thiên Cơ rất ưa Hóa Quyền, biểu thị có thể thi thố ở đời. Nó cũng ưa Hóa Khoa, biểu thị tính thông minh mẫn tiệp, hơn nữa còn theo chính đạo. Hóa Lộc thì hơi yếu, chỉ là người thông minh mưu trí và quyền biến trong lãnh vực kinh doanh làm ăn bình thường. Nếu Hóa Kị mà gặp “động tinh”, sao sát và sao không thì có thể thành tính tình gian tà, kì quái.
Trong lưu niên hoặc đại vận mà gặp Thiên Cơ, khác với bản mệnh gặp Thiên Cơ. Vì bản mệnh là chủ về bản chất của một người, còn vận hạn chỉ biểu thị những điều có thể gặp phải của một người, cho nên chẳng có tính chất mưu thần quân sư, mà chỉ biểu thị một thứ biến hóa thay đổi. Vì vậy không cần các sao khoa văn hội hợp, khi có những các sao này hội hợp, cũng không thể trong thời gian một năm hay hoặc một vận mà đột nhiên khiến người ta biến thành thông minh được.
Nhưng tính chất dựa vào quyền thế để phát huy tài năng bản thân vẫn còn. Vì vậy Lưu Khôi, Lưu Việt có giá trị rất quan trọng đối với Thiên Cơ ở cung mệnh của vận hạn. Nếu Lưu Khôi, Lưu Việt ở tam phương tứ chính xung khởi Thiên Khôi, Thiên Việt của nguyên cục, trong vận hạn này sẽ chủ về tài trí của mệnh tạo được phát huy, và nhờ được phát huy mà xảy ra biến đổi.
Thiên Cơ của vận hạn cũng ưa Hóa Quyền, là cũng vì lí do này. Hóa Lộc cũng quan trọng, chủ về trong vận hạn sẽ nhờ thay đổi mà được tài lộc. Hóa Khoa thì không quan trọng gì, bởi vì chỉ đại biếu cho danh dự nhất thời, chẳng dính dáng đến bản chât Thiên Cơ.
Trong Đẩu Số, có một số các sao gây ảnh hưởng xấu đối với Thiên Cơ như Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình, Địa Không, Địa Kiếp, Phá Toái, Thiên không, Hàm Trì, Đại hao…
Kình Dương thì dễ sinh tranh chấp. Đà La dễ khiến kế hoạch bị trì hoãn, kéo dài, thậm chí vì vậy mà xảy ra sai lầm. Hỏa Tinh, Linh Tinh thì dễ khiến lo nghĩ nhiều vì vậy mà mất cơ hội. Thiên Hình thì khiến lúc mưu cầu thay đổi sẽ xảy ra trở ngại. Thiên không thì dễ khiến sự biên động thay đổi của mệnh tạo thành không tưởng. Các tạp diệu Thiên Hư, Âm Sát thì dễ khiến người ta có lối suy nghĩ bất chính, trong vận hạn sẽ chủ về không tưởng hoặc âm mưu luồn lách.
Thiên Cơ tại cung mệnh – là người linh động
Theo cổ thư, Thiên Cơ được xếp là sao thứ nhất của Nam Đẩu, thuộc âm mộc, hóa khí là “Thiện tinh” (Thiện nghệ – khéo léo). Tính chất của Thiên Cơ về cơ bản là chủ động. Tính “động” của nó chẳng chủ về biến động thay đổi trong cuộc đời, mà có liên quan đến phương diện hoạt động tinh thần, hoặc chủ về sự linh động trong phương cách làm việc bằng trí óc.
Cổ nhân đánh giá Thiên Cơ không cao. Chỉ khi nào hội hợp với Thiên Lương, mà còn phải gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, thì mới thành cách cục “quan văn thì thanh cao hiển đạt, quan võ thì trung lương”. Nhưng đánh giá này chủ yếu là vì Thiên Lương. Bởi vì Thiên Lương là sao “thanh cao hiển đạt mà trung lương”.
Ngoại trừ cách cục kể trên, Thiên Cơ chủ về tổ nghiệp lụn bại, phải tự lập thân, sống ở tha hương. Nữ mệnh thì ” Tuy phú quý nhưng khó tránh dâm dật”. Gặp sát tinh thì lại là “mệnh dâm tiện xướng kĩ, nô tì, hay làm nhị phòng, nếu không sẽ hình phu khắc tử.” Các thuyết kế trên của cổ nhân không có chỗ nào đúng.
Ngày nay đánh giá Thiên Cơ không tệ như cổ nhân. Nguyên nhân là vì hoàn cảnh xã hội xưa và nay khác nhau. Thời cổ đại xem trọng tính tình đôn hậu, không xem trọng người giỏi ứng biến. Xem trọng bảo thủ, không xem trọng cải cách. Do đó cổ nhân không đề cao tính chất cơ trí, khéo léo, linh hoạt, có thể đổi mới, chịu động não trong công việc của Thiên Cơ.
Trong Tử vi, có cách cục “Cơ Nguyệt Đồng Lương”. Tức là Thiên Cơ thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, hội hợp với Sao Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương. Cổ quyết nói: “Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân”. Cũng chính là nói, người có mệnh cục loại này giỏi việc cầm bút, hay dùng kế đắc nhân tâm. Cho nên thích hợp với công việc của một lại nhân ở phủ huyện thời xưa. Nhưng “lại” thì không bằng “quan”, bởi vì “lại” chỉ là người dưới quyền của quan đương sai. Do đó có thể biết, cổ nhân đánh giá Thiên Cơ là người không được quang minh chính đại như người làm quan.
Trong xã hội ngày nay, đầu óc càng linh động càng dễ có chỗ đứng trong xã hội. Vì vậy người có Thiên Cơ thủ mệnh có thể được đánh giá khá cao. Điều cần chú ý nhất là, nhờ động não nhanh nên người có Thiên Cơ thủ mệnh dễ thích ứng với thời đại kĩ thuật, không thể xem thường.
-
Thiên cơ tọa Mệnh (hoặc Thiên cơ và tổ hợp của nó), hoặc đại hạn đến Thiên cơ, xử sự có lý.
-
Thiên cơ tọa Mệnh trong Lá số Tử vi không nên đơn độc hành động, nên giúp ngưòi khác lập kế hoạch (như Trương Lương là mưu sĩ cũng là văn thần có công giúp Lưu Bang đánh đổ nhà Tần và thắng Hạng Vũ trong chiến tranh Hán sở).
-
Thiên cơ kỵ nhất có sát tinh đồng cung, gặp đại, tiểu hạn dễ phát sinh hiện tượng không tốt.
-
Mệnh có Thiên cơ thêm sát tinh đồng cung không nên kinh doanh, chỉ nên làm công chức văn phòng hoặc nhân viên hành chính.
-
Thiên cơ tọa thủ cung Mệnh, Tham lang tọa thủ cung Thân, chủ về không có việc cũng bận rộn.
-
Thiên cơ tọa Mệnh là người mơ ước cao xa. Thiên cơ và tổ hợp tinh hệ của nó nếu tọa cung Điền trạch phải chú ý nhà cửa hoặc phong thủy văn phòng, lại chủ về không được kế thừa gia nghiệp tổ tiên. Nếu được kế thừa thì gia nghiệp cũng nhiều biến động.
-
Khi xem Tử Vi, nếu đại, tiểu hạn gặp Thiên cơ chủ về có sự thay đổi, như: môi trường biến động, điều chức, chuyển nhà, vị trí giường thay đổi… Thêm cát tinh chủ về thêm phúc thêm tài.
-
Thiên cơ hóa kỵ chủ về dễ bị ngã dẫn đến bị thương, thêm sát tinh chủ về mọi chuyện không thuận, phải cai rượu, dễ vì rượu mà hỏng chuyện. Lại chủ về trong nhà không yên, phiền não, chán nản, không được yên ổn.
-
Thiên cơ ưa nhất đồng cung với Thiên lương, sách có nói “giỏi bàn luận chuyện binh”. Nên làm tham mưu quân sự hoặc làm về máy tính, y học, xem mệnh…
-
Theo Tử Vi Cổ Học, Thiên cơ và Thái âm đồng cung chủ về mệnh coi trọng tình cảm, nên sớm rời xa quê ra ngoài lập nghiệp. Người có Thiên cơ tọa Mệnh có ưu điểm là linh hoạt, khuyết điểm là hay thay đổi mà không ổn định.
-
Thiên cơ không ưa đồng cung với Cự môn, sách có nói “gia đạo suy vong”. Bản thân có sự nghiệp và tình yêu đều gặp nhiều trắc trở, lận đận. Dù là nam hay nữ đều dễ phạm đào hoa.
-
Thiên cơ tại Tý, Ngọ chủ về mệnh nữ cát lợi, biết quản lý việc gia đình.
-
Người xưa không ưa mệnh nữ có Thiên cơ tọa cung Mệnh trong lá số tử vi vì tình cảm có trắc trở hoặc nói tình cảm dễ có sự thay đổi, đa sầu đa cảm hoặc có bệnh thần kinh.
-
Thiên cơ tọa cung Tử nữ chủ về con cái không nhiều, chỉ có 1 đến 2 con hoặc sinh con muộn. Thiên cơ tọa cung Phúc đức chủ về mệnh coi trọng cuộc sống tinh thần hơn cuộc sống vật chất.
Thiên Cơ độc tọa cung mệnh
Phàm Thiên Cơ độc tọa cung mệnh, nhất định phải nghiên cứu cẩn thận cung độ của nó.
Tổng cộng có sáu tình huống xuất hiện “Thiên Cơ độc tọa”, đó là các cung Tí, Ngọ, Sửu, Mùi, Tị, Hợi. Đại khái có thể chia làm ba nhóm.
Thiên Cơ cư Tị
Tình hình này, người có Thiên Cơ tọa mệnh có tính linh động và năng lực phân tích rất mạnh. Theo kinh nghiệm của Vương Đinh Chi, mệnh cách này phần nhiều là kĩ sư, bác sĩ, luật sư, có thể thấy mệnh cục loại này không phải tệ.
Đáng tiếc là đối cung có Thái Âm, sẽ hấp dẫn Thiên Cơ khiến cho người có mệnh cục loại này hao phí tính linh động trong chuyện theo đuổi người khác giới, năng lực phân tích của họ cũng dùng để phân tích tâm lí của đối tượng, thường tỏ ra cực kì dịu dàng quan tâm chăm sóc, nếu không được thì sẽ thực hiện mưu mẹo. Cho nên cổ thư nói: “Thiên Cơ thủ mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, chủ về tham lam, xa rời quê hương, gian giảo nặng.”
Nếu muốn phân biệt tỉ mỉ, cần phải xem các sao khác, có khuynh hướng làm mạnh thêm một phương diện nào đó của Thiên Cơ. Ví dụ như, Thiên Cơ mạnh tính linh động thì có thể là luật sư mà không phải là kĩ sư. Vì vậy về đại thể, dựa vào mệnh cục có thể nhìn ra khuynh hướng nghề nghiệp của một người. Có điều, nếu các sao hội hợp quá xấu, thì người này có thể chỉ là một nhân viên bán hàng, hay chào hàng.
Thiên Cơ cư Hợi
Bởi lạc hãm, nên tính linh động của Thiên Cơ sẽ giảm nhiều, chỉ có thể phát huy năng lực phân tích, rất nên gặp hai sao chủ về thông minh là Văn Xương, Văn Khúc. Như vậy sẽ làm mạnh thêm năng lực phân tích, nhờ vậy có biểu hiện tốt về sự nghiệp. Nếu gặp các sao có tính chất làm yếu đi năng lực phân tích như Hóa Kị v.v… thế là linh động thì thiếu, mà phân tích thì lại không rõ nên không thể định là thượng cách được.
Sao Thiên Cơ cư Tý – Ngọ
Tý – Ngọ là 2 cung vị có thể phát huy đặc tính của Sao Thiên Cơ một cách cao nhất. Do xung chiếu với Cự môn ở đối cung, chỉ cần Cự môn không hóa Kị, thì sẽ không bị ảnh hưởng bởi điều tiếng thị phi gây nên, mà Thiên Cơ còn phát huy được tài ăn nói, mưu trí và quyền biến.
Thông thường, Thiên cơ và Cự môn đối nhau. Nếu được Tả Hữu Xương Khúc, Hóa lộc, Hóa quyền, Khôi Việt hội chiếu. Mệnh tạo có thể nắm giữ uy quyền, trở thành người lãnh đạo công ty lớn, hoặc thủ trưởng một bộ môn của chính phủ. Nếu có thêm Lộc tồn Thiên mã vây chiếu, thì nguồn tiền tài càng dồi dào.
Nếu Xương Khúc giáp Mệnh, thì chủ về thông minh ưu tú, có thể theo đuổi sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, cũng thích làm công việc quảng bá, môi giới. Nếu có sao Cát đến hội, mà gặp thêm Sát tinh, làm việc trong lĩnh vực chính trị hoặc thương nghiệp tuy có thể phú quý, nhưng không được lâu dài. Không bằng lợi dụng tính chất của Sát tinh để “tìm cát tránh hung”.
Thông thường gặp hóa Kị thì thích hợp công việc quảng bá. Gặp Kình dương thì có thể theo ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật, gặp thêm Thiên hình thì có thể làm bác sỹ ngoại khoa. Gặp Hỏa Linh hoặc Kình Đà thì nên có nghề chuyên môn để mưu sinh.
Nữ mệnh Thiên cơ thủ Mệnh độc tọa ở Tý hoặc Ngọ, chủ về khéo léo, thông minh cơ trí, nhưng tính rất ham quyền bính, cũng chủ về biết chăm lo gia đình. Rất ngại Thiên cơ hóa Kị, có thể vì bị kích thích mà đùa giỡn với tình cảm. Nếu Cự môn của đối cung hóa Kị, gặp Sát tinh thì nên kết hôn muộn, nếu không sẽ “hình phu khắc tử”.
Cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Thiên Cơ độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì sự nghiệp có xu thế biến thiên, cần xem các sao mà nó hội hợp để định cát – hung.
-
Thiên Cơ rất ưa Hoá Quyền. Thiên Cơ Hoá Quyền lại ưu hơn Cự Môn Hoá Quyền. Hoá Quyền thì vững vàng, cho nên tốt hơn Hoá Lộc, Hoá Lộc phần nhiều nóng nảy, trôi nổi bất định.
-
Nếu đối cung là Cự Môn Hoá Quyền, ở thời hiện đại có thể chỉ là người phân phối, nhà phát hành trong giới làm ăn kinh doanh, không chủ về là người vạch kế sách hay quản lý. Thiên Cơ Hoá Quyền, thì có thể là người vạch kế sách phía sau. Một trong một ngoài, tính chất khác nhau.
-
Người sinh năm Đinh phần nhiều vất vả khổ lụy. Nếu cung tật ách là Thiên Tướng lại thuộc loại bị “Hình kị giáp ấn”, thì dễ mắc bệnh sỏi mật, sỏi thận.
-
Thiên Cơ rất kỵ đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh. Chủ về lúc bé đã rời xa cha mẹ, hoặc cảnh ngộ của cha mẹ bị biến động thay đổi, ảnh hưởng đến phúc ấm của mệnh tạo lúc còn bé.
-
Đến cung hạn “Vũ Khúc, Thất Sát” đồng độ, gặp Hoá Lộc, Hoá Quyền, Hoá Khoa thì cát. Gặp Hoá Kỵ thì hung. Vấn đề này có tính then chốt của mệnh vận cả đời.
-
Đến cung hạn Thiên Phủ tọa thủ. Gặp “kho phủ đầy ắp” thì cát, gặp “kho lộ”, “kho trống” ắt sẽ hung nguy.
-
Thái Âm thủ cung thân, chủ về mệnh tạo ngày đêm bôn ba bận rộn. Thường làm việc ban đêm, hoặc đến tối vẫn cần phải suy nghĩ kế hoạch. Nếu không gặp sát tinh, thì kinh doanh làm ăn có thể trở thành giàu có.
-
Chủ về giỏi nói năng. Nếu có Kình Dương, Đà La đồng độ, lại gặp Cự Môn Hoá Kỵ gia hội. Thì tài ăn nói hoá thành miệng lưỡi, thích hợp làm những nghề nghiệp dùng lời nói để kiếm tiền.
Thiên Cơ cư Sửu – Mùi
Thiên Cơ độc tọa ở hai cung Sửu hoặc Mùi có đặc điểm là đối chiếu với Thiên lương ở đối cung. Cổ nhân nói: “Cơ Lương hội hợp thì giỏi bàn việc binh” (Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh). Thực ra câu nói này chẳng biểu thị người này có tài năng quân sự, mà chỉ biểu thị người này thích bàn luận đề tài mà người bình thường không rành, hơn nữa còn biểu hiện phong thái hùng tài vĩ lược, tất nhiên là giỏi biện luận, nhạy bén mưu trí và quyền biến. Thông thường không nên làm công việc kinh doanh buôn bán, có thể trở thành nhân tài tham mưu cố vấn.
-
Thiên Cơ Hóa Lộc không những chủ về tiền đến tiền lại đi, mà còn rất khó tích lũy căn cơ, nhưng lại dễ có vận may kiếm tiền một cách đột ngột bất ngờ.
-
Thiên cơ hóa Quyền có thể làm tăng quyền thế, hoặc có cơ hội quen biết được với những người có quyền thế, quyền lực, tạo nguồn trợ giúp cho sự nghiệp phát triển và nâng cao địa vị của bản thân.
-
Thiên cơ hóa Khoa (can Đinh) ở hai cung Sửu hoặc Mùi, ắt phải được Văn tinh giáp cung, hoặc vây chiếu mới có biểu hiện tốt, chủ về thông minh xuất chúng, ăn nói biện giải trong giao tế có tính thuyết phục một cách chắc chắn, phản ứng nhạy bén.
Thiên cơ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, rất ngại gặp Sát tinh, Kị tinh, cổ nhân nói : “Thiên cơ mà thêm ác sát đồng cung, thì như chó trộm chuột cắp” (Thiên cơ gia ác sát đồng cung, cẩu thâu thử thiết). Tức là nói trường hợp ở hai cung Sửu hoặc Mùi. Tất nhiên phải có Sát – Hình – Kị hội chiếu, mà không có Cát tinh hội hợp, mà còn gặp Âm sát, Thiên hư thì mới đúng. Nhưng cũng chỉ chủ về nhân phẩm con người thấp, vẫn có thể dùng nỗ lực tu dưỡng hậu thiên để bổ cứu.
Nữ mệnh Thiên Cơ Hóa Kị thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thì đặc biệt rất nhiều lo nghĩ và gặp trở ngại về tình cảm, yêu ghét hay do dự thay đổi bất định, nội tâm đau khổ chưa hẳn là do người khác gây ra. Cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên mà gặp trường hợp này, nếu đứng núi này trông núi nọ, thì sẽ rất bất lợi. Nếu gặp Thiên Cơ hóa Kị và có Sát tinh đồng độ thì buộc phải thay đổi, nhưng sự thay đổi này sẽ bất lợi.
-
Thiên Cơ ở cung Mùi, cung phu thê là Thái Dương ở cung Tị, nếu hoá làm Quyền Lộc, chủ về kết hôn với người ngoại quốc (hay người phương xa). Thái Dương ở cung Sửu thì không phải.
-
Trường hợp này Thiên Cơ rất ưa Hoá Lộc, Thiên Lương đối cung cũng sẽ Hoá Quyền, là nhân tài về kế hoạch, nghiên cứu, là mệnh cách không thích hợp tự kinh doanh làm ăn. Cung phúc đức là Thái Âm cũng đồng thời Hoá Kỵ, đây là ứng nghiệm lao tâm tổn thần, chẳng phải là điềm hung.
-
Trường hợp có Địa Không, Địa Kiếp đồng độ, chủ về mệnh tạo có tư tưởng đặc biệt. Có Thiên Tài đồng độ là trí tuệ cực cao. Nhưng hai tình hình này đều chủ về người ta khó mà hiểu được mệnh tạo. Cho nên cung huynh đệ và cung phụ mẫu cần phải gặp cát tinh, mới có thể đứng vững, nếu không cuộc đời dễ chìm nổi.
-
Cung hạn “Thái Dương, Thái Âm” đồng độ là đại hạn có tính then chốt của mệnh vận cả đời, và cung hạn “Thiên Đồng, Cự Môn” đồng độ là lưu niên có tính then chốt.
Cùng một sao nhưng ở cung vị khác nhau có thể phát sinh biến hóa đa đoan, vì vậy khi phân tích bản chất của Thiên Cơ, bạn đọc cần lưu ý nhiều.
Thiên Cơ phối (đi cùng) với các tinh diệu khác
Trong 12 tinh hệ, Thiên Cơ luôn đồng cung hoặc đối nhau với Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lưong. Có thể thấy ba sao này có ảnh hưởng quan trọng đối với Thiên Cơ:
-
Ở hai cung Tí hoặc Ngọ, Thiên Cơ và Cự Môn đối nhau; ở hai cung Mão hoặc Dậu, “Thiên Cơ, Cự Môn đồng độ. Cho nên bốn cung Tí, Ngọ, Mão, Dậu là tổ hợp của “Thiên Cơ, Cự Môn”.
-
Ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Thiên Cơ và Thiên Lương đối nhau; ở hai cung Thìn hoặc Tuất, “Thiên Cơ, Thiên Lương” đồng độ. Cho nên bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là tổ hợp của “Thiên Cơ, Thiên Lương”.
-
Ở hai cung Tị hoặc Hợi, Thiên Cơ và Thái Âm đối nhau; ở hai cung Dần hoặc Thân, “Thiên Cơ, Thái Âm” đồng độ. Cho nên bôn cung Dần, Thân, Tị, Hợi là tổ hợp của “Thiên Cơ, Thái Âm”.
-
Trong các tình hình thông thường, Thiên Cơ rất ưa trường hợp “Thiên Cơ, Cự Môn” ở cung Mão. Còn trong tình hình Thiên Cơ độc tọa, nó rất ghét ở hai cung Tị và Hợi.
Sao Thiên Cơ – Thái Âm đồng độ
Tinh hệ “Thiên cơ Thái âm” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, cung Tài có Thiên đồng, cung Quan có Thiên lương. Đây là một tinh hệ điển hình của cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương”, cổ nhân nói: “Cơ Nguyệt Đồng Lương là làm thư lại” (Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân), trong trường hợp này rất là đúng tiêu chuẩn.
Đặc tính các sao của bản cung là xử sự có mạch lạc, lớp lang, ngăn nắp, thứ tự, có thể dựa vào đó để định phương kế và kế hoạch làm việc, cho nên thích hợp làm công chức, hoặc đảm nhiệm chức vụ trong công ty. Xã hội hiện đại xem trọng việc quản lý công ty, rất thích hợp với người có mệnh cách này.
Ở phương diện khác, cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương” còn chủ về mệnh tạo thiên về mặt âm nhu, phái nam nhờ vậy mà dễ tiếp cận phái nữ, biết rõ tâm lý nữ giới, phái nữ cũng chủ về dung mạo xinh đẹp, giầu tình cảm, dễ được phái nam theo đuổi.
Nhưng tính cách âm nhu này cũng có thể phát triển thành thủ đoạn xấu bên trong, như kiểu mua chuộc lòng người. Đây cũng là nhân tố cơ bản của “lại nhân” (nhân viên trông coi văn thư trong huyện phủ thời xưa)
-
“Thiên Cơ, Thái Âm” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, là chính cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương”. Ở cung Thân, Thiên Lương ở cung Tí ưu hơn Thiên Lương ở cung Ngọ, cho nên oán trách, thị phi ít hơn.
-
“Thiên Cơ, Thái Âm” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân rất ngại Hoá Kỵ, chủ về quyền biến, nhiều thủ đoạn. Ở cung Dần, đặc biệt còn chủ về hí lộng quyền bính.
-
“Thiên Cơ, Thái Âm” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, gặp Thiên Lương Hoá Lộc, đến đại hạn Cự Môn hoặc Thiên Đồng, thường dễ chuốc họa tai, thị phi, cần phải khiêm tốn, ôn hoà, mới có thể bình an vượt qua.
-
“Thiên Cơ, Thái Âm” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, cung phúc đức là Cự Môn cần phải gặp cát tinh mới tốt. Nếu Cự Môn có các sao sát, kị đồng độ, đến lưu niên “Liêm Trinh, Thất Sát” đồng độ, thường dễ gây ra phá tán, thất bại.
-
“Thiên Cơ, Cự Môn” đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, cần phải gặp sao lộc mới cát. Rất kị có Hoả Tinh, Linh Tinh cùng bay đến, chủ về khinh bạc, phóng đãng, thiếu trang trọng, phá phách.
-
Đối với “Thiên Cơ, Cự Môn” đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, cung hạn “Thái Dương, Thái Âm” đồng độ là lưu niên có tính then chốt. Rất kị Thái Dương Hoá Kị, nếu có các sao cát, hình trùng trùng, sao kị của lưu niên lại xung khởi Thái Dương Hoá Kỵ, chủ về vì gây oán thù mà gặp sóng gió nghiêm trọng.
-
“Thiên Cơ, Cự Môn” đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu đến đại hạn Thái Âm Hoá Kỵ, thường thường dễ sinh phá tán, thất bại, mà thường vì tự cho thông minh mà gây ra.
Sao Thiên Cơ – Cự Môn đồng độ
Sao Thiên Cơ Cự Môn đồng độ, hình thành nên cách cục Cự Cơ Mão Dậu. Người có Thiên Cơ thủ mệnh rất sợ gặp Cự Môn, bởi vì Cự Môn là “ám tính” chủ về điều tiếng thị phi. Thiên Cơ bị Cự Môn che lấp, năng lực phân tích sẽ giảm rất nhiều.
Người có mệnh cục loại này nhất định là cung mệnh rơi vào hai cung Mão hoặc Dậu. Mão và Dậu là cung vượng của Thiên Cơ sức mạnh không phải yếu, vì vậy sau khi năng lực phân tích của nó bị Cự Môn làm yếu đi, chỉ còn lại tính linh động để phát huy.
Có tính linh động mà không có năng lực phân tích, nam mệnh sẽ dễ biến thành học nhiều mà không có thực chất, đứng núi này trông núi nọ. Nữ mệnh thì dễ bị dụ dỗ, không giữ gia đạo. Nếu các sức mạnh xấu này làm mạnh thêm khuynh hướng hiếu động của Thiên Cơ, theo quan điểm của xã hội cổ đại, thì không phải là người có phúc. Cho nên cổ thư nói: “Cự Môn hãm Thiên Cơ là phá cách chủ về nam thì sở khanh, nữ thì dâm dật.”
Nhưng xét từ quan điểm xã hội hiện đại, người có “Thiên Cơ, Cự Môn” tọa mệnh không đến nỗi xấu như cổ nhân nói. Bởi vì xã hội trước kia việc dựng vợ gả thường đều thông qua người mai mối, cho nên người phối ngẫu chưa chắc hợp ý. Ngày nay tự do yêu đương, người có mệnh cục loại này chỉ cần kết hôn muộn một chút, chờ gặp người tâm đầu ý hợp mới kết hôn, thì không đến nỗi có sóng gió, trắc trở xuất hiện trong hôn nhân.
Đồng thời, trong xã hội hiện đại việc mưu sinh rất chú trọng đầu óc linh hoạt, cho nên dù năng lực phân tích có yếu đi một chút về căn bản vẫn không ảnh hưởng nhiều đến sự thành tựu về sự nghiệp và địa vị xã hội.
Còn nói về nữ mệnh, ngày nay phụ nữ không lo việc nhà cũng đã thành chuyện bình thường. Chỉ cần ra ngoài làm việc, kiếm tiền phụ giúp gia đình, chồng cũng sẽ không nói gì, do đó khuyết điểm của mệnh cục này đã giảm bớt rất nhiều.
Nhưng mệnh cục loại này lại không ưa gặp đào hoa, chỉ cần có hai ba sao đào hoa hội hợp, tất sẽ xem trọng dục tình. Nếu là nữ mệnh sẽ dễ có khuynh hướng trụy lạc chốn phong trần.
-
“Thiên Cơ, Cự Môn” đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu. Nam mệnh Cự Môn Hoá Lộc, chủ về chồng già lấy vợ trẻ. Thiên Cơ Hoá Lộc, thì phần nhiều là tái hôn. Nữ mệnh Cự Môn Hoá Lộc, cũng nên lấy người lớn tuổi; Thiên Cơ Hoá Lộc, phần nhiều đều có khiếm khuyết trong hôn nhân.
-
“Thiên Cơ, Cự Môn” đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu. Nữ mệnh gặp Thiên Đồng đồng độ với Lộc Tồn, đến vận Tham Lang, thường chủ về bị người ta bỏ rơi, hôn nhân gặp sóng gió, trắc trở, vì vậy không nên kết hôn sớm. Ở cung Dậu tuy tốt hơn, nhưng cũng ngại đào hoa quá nặng. Thiên Đồng chủ về tình cảm, nên có ứng nghiệm như trên.
-
Đối với “Thiên Cơ, Cự Môn” đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, cung hạn “Thái Âm, Thái Dương” đồng độ, và cung hạn Thất Sát toạ thủ là hai đại hạn có tính then chốt. Cát hung của hai đại hạn này gây ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời. Cung hạn “Sát Phá Tham” là lưu niên có tính then chốt.
Sao Thiên Cơ – Thiên Lương đồng độ
Thiên Cơ, Thiên Lương thủ mệnh, có ba biến cục, đó là Thiên Cơ và Thiên Lương đồng cung. Trong cổ thư có ba câu bình giải về cách cục này, như sau:
-
Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung ở Thìn hoặc Tuất, chủ về có nghề cao tùy thân. (Tiếng Hán là Cao Nghệ, dịch nghề cao là chưa chuẩn. Nên dịch là Giỏi nghề – Tức có nghề giỏi tùy thân – giỏi về một nghề nào đó, bên cạnh những nghề khác)
-
Thiên Cơ, Thiên Lương ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thêm sao cát, chủ về phú quý tốt lành.
-
Thiên Cơ, Thiên Lương thủ mệnh thêm các sao hình, kị, thiên về làm tăng nhân, đạo sĩ.
Từ ba câu bình giải trên có thể thấy, cách cục Thiên Cơ và Thiên Lương thủ mệnh có biến hóa rất lớn. Muốn phân tích, phải xem trong hai sao, sao nào mạnh hơn.
Nếu Thiên Cơ mạnh hơn, là mệnh có cao nghệ tùy thân. Ngược lại, nếu Thiên Lương mạnh hơn, gặp sao cát, thì phú quý cát tường. Gặp các sao hình, kị, thì sức mạnh của Thiên Cơ sẽ phát huy triệt để, cho nên có khuynh hướng nương thân ở “cửa không”.
Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, gọi là “Thiên La, Địa Võng”, tính linh động của Thiên Cơ sẽ bị ảnh hưởng. Do đó chỉ có thể phát huy năng lực phân tích, chủ về là người giỏi suy nghĩ, khảo cứu, rất nhiều kĩ sư và giáo sư có mệnh cục loại này. Có thể thấy mệnh cục loại này tuyệt đối không tệ. Cổ nhân nói “có Cao Nghệ tùy thân”, hiện đại có thể nói là “có học vấn chuyên môn”.
Nhưng tính chất của Thiên Lương lại có thể gây ảnh hưởng khiến Thiên Cơ biến thành tâm địa hiền từ, trầm mặc, ít nói, phẩm chất thanh cao. Cho nên dù mệnh cục hơi kém, là thợ thuyền, mệnh tạo ắt cũng thích tìm tòi về kĩ thuật, có lúc cũng có tâm đắc.
Còn một đặc điểm nữa là, không chịu mang điều tâm đắc ra truyền cho người khác. Ngay cả đồ đệ cũng không chịu truyền thụ, cho nên tuy tâm địa thiện lương nhưng vẫn thường dễ chuốc oán.
Nếu gặp các sao hình, kị, Thiên Cơ hoàn toàn bị kềm chế, sức mạnh của Thiên Lương sẽ phát huy cực độ, mệnh tạo sẽ thiên về “huyền học”, thích nghiền ngẫm các vấn đề triết lí, nên cổ nhân nói “thiên về làm tăng nhân, đạo sĩ”.
Thực ra ở thời hiện đại, cũng không hằn là mệnh của triết gia, và không nhất định sẽ xuất gia. Thiên Cơ và Thiên Lương phối hợp, hai sao đã yếu, rất kị gặp sát tình, nếu không sẽ dễ xử sự hồ đồ, tâm hồn trống rỗng.
“Thiên Cơ, Thiên Lương” đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, chủ về có tay nghề, ở thời hiện đại cũng có thể định là nhân tài chuyên nghiệp. Không thích hợp làm việc trong chính giới hay kinh doanh buôn bán, nếu không, phúc không được lâu dài, vận tốt thường chỉ trong chớp mắt.
“Thiên Cơ, Thiên Lương” đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, là thiên cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương”, cần phải dùng miệng lưỡi để dùng lời nói để kiếm tiền, mới có thể phát triển. Ở thời hiện đại, thường thường là chuyên viên bán hàng, chào hàng, tiếp thị.
“Thiên Cơ, Thiên Lương” đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, có sao không và sát tinh cùng bay đến, cổ nhân định là mệnh tăng nhân, đạo sĩ. Ở thời hiện đại cũng là người truyền giáo. Nữ mệnh phần nhiều lênh đênh.
“Thiên Cơ, Thiên Lương” ở cung Thìn, mà Thiên Cơ Hoá Kị, cần phải dùng lời nói để kiếm tiền. Không có Hoá Kị, chủ về kết hôn với người ngoại quốc (hay người phương xa).
Đối với “Thiên Cơ, Thiên Lương” đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, cung hạn “Vũ Khúc, Tham Lang” đồng độ là đại hạn có tính then chốt. Ba cung hạn “Tử Vi, Thất Sát”, “Liêm Trinh, Phá Quân”, và “Vũ Khúc, Tham Lang” là các lưu niên có tính then chốt.
Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, cuộc đời gặp nhiều rắc rối khó xử về tình cảm. Nếu cung phu thê là Thái Dương Hoá Lộc, hoặc cung thiên di là Thái Âm Hoá Lộc, thì dục tình rất nặng, gặp thêm sát tinh và các sao đào hoa, thì dễ lạm dâm. Thiên Cơ đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, là mệnh rời xa quê hương hoặc chủ về làm con nuôi người khác, tuổi trẻ bất lợi về cha. Đến đại hạn Thất sát tọa thủ, nếu có các sao sát, kị, hình cùng chiếu, chủ về có bệnh tật nghiêm trọng ở mắt.
Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, nữ mệnh không nên Hoá Kị hoặc có sao kị hội chiếu. Gặp thêm sát tinh, chủ về hình khắc, sinh ly, hoặc làm nhị phòng, tì thiếp.
Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp các sao phụ, tá cát, thì có thể phú quý, thích hợp làm những công việc mang tính phục vụ công chúng, đặc biệt về truyền thông hay thông tấn, báo chí.
Đối với Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, hai cung hạn “Thiên Đồng, Cự Môn” và “Liêm Trinh, Thiên Phủ” là hai lưu niên có tính then chốt. “Sát, Phá, Tham” là đại hạn có tính then chốt.
Bản chất của Thiên cơ là mưu chí, linh động quyền biến mà còn nhạy bén (can Bính hóa Quyền – nếu không có Quyền thì khó có thể linh động quyền biến). Cho nên khi Thiên cơ hóa Lộc ắt sẽ “chủ động” (đây là lợi thế) tìm được ra cơ hội để tạo thành sự nghiệp, vì vậy mà thu được lợi ích.
Tham khảo thêm về Thiên Cơ Hóa Lộc
Thiên Cơ hóa Quyền – Can Bính
Thiên Cơ bản chất là hiếu động, trôi nổi, sau khi hóa Quyền sẽ biến nó thành khá ổn định. Thiên Cơ có bản chất linh động, sau khi hóa Quyền khiến bản chất linh động của nó càng có hiệu suất. Nhưng tăng hiệu suất, không nhất định sẽ cải thiện hoàn toàn hiệu quả lối xử sự.
Tham khảo thêm về Thiên Cơ Hóa Quyền
Thiên Cơ hóa Khoa – Can Đinh
Thiên cơ hóa Khoa không chủ về nghiên cứu học thuật, chỉ khi gặp Xương Khúc Khôi Việt hội hợp, mới có ý vị nhiên cứu học thuật. Cũng có thể khi Thiên cơ hóa Khoa có một số biểu hiện nhưng không liên quan đến học thuật, nhưng vẫn khiến cho người ta trọng dụng, ví dụ như thắng một giải đua xe. Đây là do ở xã hội hiện đại xem trọng về mức độ chuyên nghiệp và chuyên sâu, cho nên bản chất của Thiên cơ hóa Khoa cũng được phát huy khá lớn.
Tham khảo thêm về Thiên Cơ Hóa Khoa
Thiên Cơ hóa Kị – Can Mậu
Thiên Cơ vốn có tính linh động, sau khi hóa Kị sức linh động giảm bớt, chủ về gặp chướng ngại, hoặc vì một số nhân tố khách quan và chủ quan, dẫn đến mất cơ hội tốt.
Tham khảo thêm về Thiên Cơ Hóa Kỵ
Những lưu ý thêm về Sao Thiên Cơ
Dưới đây là một vài lưu ý thêm về Sao Thiên Cơ. Ví dụ khi đi với sát tinh thì làm sao hoặc đi với cát tinh thì Thiên Cơ trở nên như thế nào. Dĩ nhiên, trong các lá số thực tế, đa phần là hung cát lẫn lộn. Tuy nhiên, cần hiểu rõ bản chất của sự việc thì các bạn mới có thể luận đoán đúng được…
Khi Thiên Cơ đi với Cát tinh
Thiên Cơ, Thiên Lương ở Thìn, Tuất: Có tài năng, đức độ, mưu trí, phú quý song toàn, có năng khiếu về chiến lược, chính lược.
Thiên Cơ, Cự Môn ở Mão Dậu: Có tài năng, đức độ, mưu trí, phú quý song toàn, có năng khiếu về chiến lược, chính lược; nhưng nổi bật nhất ở chỗ rất giàu có, duy trì sự nghiệp bền vững.
Thiên Cơ, Vũ Khúc, Hồng Loan (nữ mệnh): Có tài năng về nữ công, gia chánh (thợ may giỏi, khéo tay, chân).
Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương (Cơ Nguyệt Đồng Lương): Nếu đắc địa cả thì người đó có đủ đức tính của một bậc nho phong hiền triết. Nếu có sao hãm thì thường làm thư lại, công chức.
Khi Thiên Cơ đi với Hung Sát tinh
Thiên Cơ, sát tinh đồng cung: Trộm cướp, bất lương.
Thiên Cơ, Thiên Lương ở Thìn Tuất gặp Tuần Triệt hay sát tinh: Gặp nhiều gian truân, trắc trở lớn trên đường đời, có chí và có số đi tu. Nếu gặp Kình, Đà, Linh, Hỏa hội họp, có Tướng xung chiếu thì là thầy tu hay võ sĩ giang hồ.
Cơ Nguyệt đồng cung ở Dần, Thân gặp phải Xương Riêu Dâm đãng, đĩ điếm, nếu có khiếu thì có thể làm thi văn dâm tình, viết dâm thư giống như kiểu Hồ Xuân Hương.
Quan điểm về Sao Thiên Cơ của Vương Đình Chi
Thiên Cơ thuộc Âm Mộc, là sao thứ nhất của chòm Nam Đẩu, giống như Mưu thần, thích việc cơ biến, khi thiện, khi ác. Nếu được Xương Khúc, Long Trì Phượng Các, cùng Hóa Khoa thì thông minh tuyệt đỉnh, có khả năng dụng thành chính đạo.
Nếu chẳng gặp được cát diệu, mà lại gặp Hóa Kỵ, Sát tinh cùng với các sao bất lương thì tính chất của Thiên Cơ trở thành Bất lương, gian trá. Có thể thấy rằng Thiên Cơ đối với các phụ tinh là sát tinh thì đặc biệt nhạy cảm.
Hóa Quyền có khả năng tăng cường tình ổn định của Thiên Cơ, cũng gia tăng khả năng đối kháng với sát tinh là Hóa đẹp nhất vậy.
Hóa Khoa gia tăng khả năng thông minh tài trí của Thiên Cơ, cũng là sao Hóa rất tốt đối với Thiên Cơ.
Hóa Lộc thì làm cho cái trí mưu của Thiên Cơ chỉ thích sử dụng trong kinh doanh, là kẻ chỉ thích kiếm tiền.
Hóa Kỵ làm cho Thiên Cơ trở thành mưu lợi, chỉ thích đi ngang về tắt.
Thiên Cơ lâm Phúc đức cung mà gặp Sát tinh thì ảnh hưởng cũng không quá nặng. Chủ về Tâm chẳng được nhàn, nhiều dự định, toan tính. Nếu gia Hóa Kỵ thì tâm phiền mà thường nông cạn.
Thiên Cơ vốn được gọi là sao “Thiện Biến” cho nên tình cảm thường thay đổi mạnh, hoặc tư tưởng thay đổi mạnh. Thường là sao biến đổi mạnh thì ắt sẽ rất nhạy cảm với sát tinh, cho nên rất cần Hóa Quyền để tăng độ ổn định. Mà Thiên Cơ lại vốn có bản chất của mưu thần, bởi vậy khá thích hợp với vai trò phụ tá.
Lời bàn: Vương tiên sinh rất coi trọng Tứ Hóa, bởi vậy nên cho rằng Tứ Hóa có thể cải biến được tinh chất của các tinh diệu, cụ thể là Thiên Cơ.
Quan điểm của Vương tiên sinh đánh giá Thiên Cơ là sao rất cơ biến, có khả năng thích nghi cao, có khi thiện, có khi ác, phụ thuộc vào hệ thống các sao phụ tinh hội hợp.Đặc biệt ông cho rằng nếu Thiên Cơ cư Phúc cung, có khả năng chế sát, hóa giải tác dụng xấu của một số sát tinh khi hội hợp vào Phúc Cung.
Quan điểm của Danh sỹ Phan Tử Ngư về Sao Thiên Cơ
Thiên cơ thuộc âm mộc, sao thứ ba của nhóm Nam Đẩu, là sao ích thọ, chủ về anh em, hóa khí gọi là thiện nên còn gọi là Thiện Tú (sao Thiện). Thiên cơ nhập miếu, vượng thì người đậm mập, gặp hãm địa thì người gầy ốm. Tính cách phần nhiều tính toán sáng suốt, siêng năng cẩn thận, nếu đồng cung với Thiên lương thủ Thân Mệnh thì phần nhiều là người nói hay, giỏi biện luận, đủ tố chất thành tài ở ngành nghề cần tới sự khéo léo đặc biệt, tâm địa thiện lương, có lòng tín ngưỡng đối với tôn giáo. Nếu thêm Khôi Việt Khúc Xương thì chủ về đa học đa năng, nếu có Kình dương xung phá hoặc hội thêm Không Kiếp thì rất cô độc, hoặc là mệnh sư tăng đạo sĩ.
Quan điểm của Lục Bân Triệu về Sao Thiên Cơ
Sao Thiên cơ về ngũ hành thuộc âm mộc, ở trên trời thuộc chòm Nam tinh. Hóa là Thiện Tinh. Tính chất của Thiên Cơ là nhiều kế mưu kế, ứng biến đa đoan. Ở người là giỏi quyền biến, giỏi nắm bắt cơ hội, có tính hiếu học, hiếu động, siêng năng. Song cứ thấy lạ là thay đổi cách suy nghĩ. Vì vậy rộng mà không sâu, bác mà không tinh. Hơn nữa dục vọng quá cao, cho nên thực tế thường không theo kịp lý tưởng. Vì vậy mà nhọc tâm mệt sức, song xử sự phần nhiều là có lý lẽ.
Nếu Thiên cơ ở cung mệnh thì chủ về người sắc mặt trắng xanh, lúc tuổi già hơi kèm sắc vàng. Nhập miếu thì thân hình dài mập. Đồng độ với Cự môn hoặc lạc hãm chủ về người gầy dong dỏng cao, mặt dài hơi kèm tròn, tâm từ tính gấp, hiếu động, hiếu học.
Nam mệnh có sao Thiên cơ ở cung mệnh thì nhiều cơ mưu biến hóa, đa tài đa nghệ. Hội hợp với Thiên lương thì sở trường về khẩu tài, khéo biện luận, tính tình nhạy cảm, giỏi tùy cơ ứng biến. Đồng độ hoặc hội hợp với Thái âm thì kín đáo giỏi quyền biến, trọng tình cảm.
Thiên cơ ở Thân địa thì có Tử vi và Thiên phủ giáp cung Mệnh, một đời quyền trọng lộc nhiều. Ở Tý địa hoặc Ngọ địa thì Cự môn xung cung trở thành bậc quyền quý giầu có.
Thiên cơ nhập miếu thì bàn việc quân rất giỏi. Được các sao Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Hóa quyền, Hóa lộc, Thiên khôi, Thiên việt hội hay chiếu thì một đời quyền quý. Được Lộc tồn Thiên mã vây chiếu thì nguồn tiền tài dồi dào.
-
Có Văn xương Văn khúc giáp cung thì bẩm tính thông minh, văn chương xuất chúng.
-
Có tam hóa tinh Lộc Quyền Khoa chiếu và hội, không có sát diệu, là trong thần triều đình.
-
Gặp Hóa Kị thì đi đó đi đây nhiều thay đổi, lừng khừng không quyết đoán vì tính tự hay quan trọng hóa vấn đề, quan trọng hóa sự việc một cách không cần thiết, nên hay lo hay nghĩ.
-
Đồng độ với Kình Đà Hỏa Linh tuy được phú quý song không lâu dài. Gặp Cát tinh thì nên chọn nghề kinh doanh song phải chấp nhận nhiều biến động để thích nghi với thị trường.
-
Nếu có Cát tinh phù trì thì chủ về bản thân kiêm mấy chức, hoặc là người có kỹ thuật chuyên môn, thành công vè nghệ thuật.
- Thiên cơ Cự môn Lộc tồn đồng cung, hoặc ở cung Thiên di, chủ về đại quý (cần phải không có ác sát)
Thiên cơ Thiên lương đồng cung, có cát tinh hội và chiếu, tuy có thể phát song không được lâu dài, tuy rằng quý nhưng chỉ có hư danh.
Thiên cơ, Thiên lương, Thát sát, Phá quân xung hội là người thích đàm luận thiền cơ của cửa Không.
Thiên cơ, Thiên lương, Thiên đồng, Thái âm hội và chiếu thì nên tính việc phát triển ở cơ quan công sở hoặc những ngành nghề liên quan đến công chúng. Nếu gặp Văn xương Văn khúc thì thích hợp với những ngành nghề liên quan đến văn hóa đại chúng.
Thiên cơ, Thiên lương, Thái âm hội và chiếu, mà Tham lang thì ở cung Thân thì chủ về người ngày đêm bôn ba, tất bật dị thường, hoặc đam mê riệu chè cờ bạc. Cùng với Kình Đà Hỏa Linh hội và chiếu thì chủ về nhiều tài nhiều nạn. Hoặc sau khi suy sụp thì bỏ đi nơi khác, hay làm con thừa tự của người khác, nếu không sẽ hay lo sợ vô cớ.
Ở Dần địa, Mão địa, Thìn địa mà hội và hợp Sát tinh Thất sát và Phá quân là chủ về chuyện bất trắc chảy máu. Phàm hội và hợp Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp và Thiên hình, lại gặp thêm Hóa Kị thì yểu thọ.
Nữ mệnh có sao Thiên cơ ở cung mệnh chủ về tính tình cương cường, thông minh khéo léo, lanh lợi, giúp chồng ích con, giỏi lo việc nhà, tháo vát hơn chồng.
-
Có tam cát Lộc Quyền Khoa tương hội là tạo mệnh phu nhân.
-
Có Thái âm đồng độ là dung mạo mỹ lệ, giầu tình cảm, khéo đối xử.
-
Có Cự môn hội và chiếu là người nhiều lời qua tiếng lại.
-
Thiên cơ hóa Kị thì hay lo nhiều nghĩ nhiều, bị tính ưa kích thích, dễ bị ngoại giới ảnh hưởng mà gây nên cảm xúc, làm cho đối tượng nam giới vừa hận vừa yêu, là bông hoa hồng có gai.
Nếu Thiên cơ, Cự môn, Thiên lương, Thái âm hội và hợp, lại gặp thêm ác sát Hóa Kị Kình Đà Hỏa Linh, Thiên hình Không Kiếp là chủ về hình khắc, thường làm kế thất, làm vợ lẽ, hoặc hậm kết hôn, nếu không thì tổn thương chồng khắc hại con.
Lưu niên đại hạn vào triền độ của Thiên cơ, nhiều cơ hội mới, chủ về có cơ hội chuyển động biến đổi, hoặc nhà ở, giường ngủ có chuyện phải di dời.
-
Hội và chiếu Thiên mã là có thuyên chuyển thăng chức, đi xa.
-
Hội với tam hóa Khoa Quyền Lộc và các cát tinh như Lộc Mã Xương Khúc Khôi Việt thì chủ về phát triển sự nghiệp, thêm tài thêm phúc.
-
Nếu các sao Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Hóa Kị Cự môn hội và chiếu thì chủ về lời qua tiếng lại liên miên, gia sự rối bời, tâm phiền ý nản, mọi việc đều biến động không được yên ổn.
Sao chủ thân Thiên Cơ
Sao chủ mệnh Thiên Cơ
Thiên Cơ nhập Hạn ca
Nam nữ nhị hạn trị Thiên cơ
Lộc chủ Khoa Quyền đại hữu vi
Xuất nhập kinh định đa ngộ quý
Phát tài phát phúc thiểu nhân tri.
Lưu hành nhị hạn mà gặp sao Thiên cơ hội cùng với Hóa khoa, Hóa quyền thi tài lộc hoạnh phát. Công việc kinh doanh gặp quý nhân giúp đỡ, được vượng phát phúc tài, một cách kín đáo ít người lường được.
Hựu viết
Thiên cơ chiếu hạn bất an ninh
Gia sự phân phân ngoại sự đa
Cánh ngộ Dương Đà tinh cự ám
Tu tri thủ tuế nhập nam kha.
Hạn hành gặp sao Thiên cơ cùng với Dương Đà, Cự môn , Thiên lương hãm địa hội chiếu, thi gia nọi rối bời, mà ngoại lại còn rủi ro đa sự, tâm hồn tam canh lo lắng, nếu thử chiếu thêm hung sát tinh, năm ấy chắc sẽ được về hưởng phúc quy tiên.
Thiên Cơ Khi Vào Các Hạn
-
Thiên Cơ, Thương Sứ: Đau ốm, tai nạn, đánh nhau.
-
Thiên Cơ, Tang Khốc: Tang thương đau ốm.
-
Thiên Cơ Lương Tang Tuế: té cao ngã đau.
-
Thiên Cơ, Khốc Hỏa Hình: Trong nhà thiếu hòa khí.
-
Thiên Cơ, Kỵ Hỏa Hình Thương Sứ: Tang thương đau ốm, khẩu thiệt quan tụng.
Sao Thiên Cơ ở cung Thiên Di
Tại Tỵ, Ngọ, Mùi hay Cơ Lương đồng cung hay Cơ Nguyệt đồng cung ở Thân: nhiều may mắn về buôn bán ở xa, được quý nhân phù trợ, trong số đó có người quyền quý (Lương) hay chính vợ (Nguyệt) giúp đỡ mình rất nhiều.
Thiên Cơ, Cự Môn: Cũng giàu nhưng bị tai tiếng, khẩu thiệt vì tiền bạc.
Tại Hợi, Tý, Sửu: Bất lợi khi xa nhà.
Thiên Cơ, Tả Phù, Hữu Bật: Được người giúp đỡ.
Tham khảo thêm khi Sao Thiên Cơ ở Cung Thiên Di
Sao Thiên Cơ ở cung Tài Bạch
Thiên Cơ, Cự Môn hay Thiên Cơ, Lương hay Thiên Cơ ở Ngọ Mùi: Phát tài, dễ kiếm tiền và kiếm được nhiều tiền. Riêng với Cự Môn thì phải cạnh tranh chật vật hơn.
Ở các cung khác: Làm ăn chật vật, thất thường. Duy chỉ có đồng cung với Thái Âm ở Thân thì tự lực lập nên cơ nghiệp khá giả. Nếu có Lộc Mã thì đại phú.
Tham khảo thêm vấn đề Thiên Cơ Cung Tài Bạch
Sao Thiên Cơ ở cung Quan Lộc
Vì Thiên Cơ chủ sự khéo léo, tinh xảo chân tay, lại có mưu trí, tháo vác, thêm sự khôn ngoan học rộng, cho nên Thiên Cơ ở Quan thường rất có lợi.
Tham khảo thêm vấn đề Thiên Cơ Cung Quan Lộc
Sao Thiên Cơ ở cung Điền Trạch
Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung, Cự Môn, Nguyệt ở Thân hay Cự Môn.
Thiên Cơ ở Mão: Có nhiều nhà đất.
Tại Hợi Tý Sửu Dần: Nhà đất bình thường.
Tại Tỵ Ngọ Mùi: Tự tay tạo dựng nhà đất.
Thiên Cơ, Cự Môn tại Dậu: Phá sản hay lìa bỏ tổ nghiệp, nhà đất ít.
Tham khảo thêm vấn đề Thiên Cơ Cung Điền Trạch
Sao Thiên Cơ ở cung Phụ Mẫu
-
Đơn thủ tại Tỵ, Ngọ, Mùi: Cha mẹ khá giả.
-
Đơn thủ tại Hợi, Tý, Sửu: Cha mẹ bình thường. Cha mẹ và con không hợp tính nhau. Có cha mẹ nuôi, hoặc cha mẹ chắp nối.
-
Thiên Cơ, Thái Âm đồng cung tại Thân: Cha mẹ khá giả.
-
Thiên Cơ, Thái Âm đồng cung tại Dần: Cha mẹ khá giả, nhưng sớm có sự xa cách cha mẹ.
-
Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung: Cha mẹ giàu sang và sống lâu.
-
Thiên Cơ, Cự Môn đồng cung: Cha mẹ xa cách, thiếu hòa khí.
Tham khảo thêm về vấn đề Thiên Cơ Cung Phụ Mẫu
Sao Thiên Cơ ở cung Phúc Đức
-
Tại Hợi, Tý, Sửu: Bạc phúc, họ hàng ly tán.
-
Tại Tỵ, Ngọ, Mùi: Có phúc, họ hàng khá giả.
-
Cự Môn, Thiên Lương đồng cung hay Thiên Cơ, Nguyệt tại Thân: được hưởng phúc, sống lâu, họ hàng khá giả.
-
Tại Dần: không được hưởng phúc đồi dào nên suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Họ hàng bình thường, người nữ hay trắc trở về chồng con.
Tham khảo thêm khi Cung Phúc Đức có Thiên Cơ
Sao Thiên Cơ ở cung Tử Tức
-
Thiên Cơ, Lương hay Nguyệt Đức là người có từ 3 đến 5 con. Nếu Thiên Cơ đơn thủ thì ít con.
-
Cự Môn, Thiên Cơ (hay Cơ Nguyệt ở Dần Thân): Có con dị bào.
Thông thường bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Tử là chỉ dấu về con dị bào, dù không đủ bộ.
Tham khảo thêm vấn đề Thiên Cơ Cung Tử Tức
Sao Thiên Cơ ở cung Phu Thê
-
Tại Tỵ, Ngọ, Mùi: Sớm lập gia đình, vợ chồng lấy nhau lúc còn ít tuổi, hoặc người hôn phối nhỏ tuổi hơn mình khá nhiều.
-
Tại Hợi, Tý, Sửu: Vợ chồng khắc tinh, thường chậm gia đạo.
Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung: Lấy con nhà lương thiện, vợ chồng hòa hợp, thường quen biết trước hoặc có họ hàng với nhau. Gia đạo thịnh.
Tham khảo thêm vấn đề Sao Thiên Cơ Cung Phu Thê
Sao Thiên Cơ ở cung Huynh Đệ
Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung: Có anh chị em dị bào, thường là cùng mẹ khác cha.
Thiên Cơ đơn thủ: Ít anh chị em.
Tham khảo thêm vấn đề khi Sao Thiên Cơ ở Cung Huynh Đệ
Sao Thiên Cơ ở cung Nô Bộc
Thiên Cơ, Thiên Lương, Tả Phù, Hữu Bật: Có tôi tớ, bạn bè tốt, hay giúp đỡ mình, có công lao với mình.
Tham khảo thêm vấn đề khi Sao Thiên Cơ ở Cung Nô Bộc
Sao Thiên Cơ ở cung Tật Ách
Thiên Cơ thuộc mộc, chủ về tạng can (gan), còn chủ về tứ chi, nhất là các ngón tay, ngón chân (đây là lấy nhánh, cành cây ví với tay chân). Cho nên Thiên Cơ lạc hãm, lại gặp sát tinh, thì chủ về tay chân bị thương. Nếu nhập miếu mà gặp sát tinh, thì phần nhiều chủ về bệnh gan.
Tham khảo thêm vấn đề Sao Thiên Cơ Cung Tật Ách
Khương Tử Nha – Hình tượng Thiên Cơ Tinh
Khương Tử Nha vốn là đệ tử tài giỏi của Nguyên Thuỷ Thiên Tôn trên núi Côn Lôn, nhận mệnh thầy xuống núi giúp đỡ Tây Bá hầu Cơ Xương tiêu diệt Trụ sáng lập triều Tây Chu. Nhưng do thấy thời cơ chưa chín muồi, nên ông tạm thời đến ẩn cư bên khe Phàn Khê thuộc Tây Kỳ, chờ đợi cơ hội. Ông ngày ngày đọc kinh “Hoàng Đình”, ngộ đạo tu chân.
Lúc nhàn rỗi thường ra ngồi buông câu bên bờ sông Vị Thuỷ. Một hôm, ông thầm nghĩ: “Thầy mệnh cho ta xuống núi, tính đến nay đã gần tám năm rồi, thực đúng với lời của thầy: Hai bốn năm đầu vận bĩ cực; Tám năm sau mới gặp thời cơ”, trong lòng cảm thấy buồn rầu.
Lúc đó, chợt có một người tiều phu tên là Vũ Cát đi đến, thấy Khương Tử Nha nhấc cần câu lên, đầu dây câu chỉ có một chiếc kim thẳng, lại không mắc mồi câu, thì cười mà nói với ông rằng: “Người có chí không kể tuổi tác, làm người mà không biết mưu tính, sống đến trăm tuổi cũng uổng phí. Ông câu cá mà không dùng lưỡi câu, cũng không mắc mồi có câu đến cả trăm năm cũng chẳng được nổi con cá nhép”.
Khương Tử Nha bèn nói: “Già này tuy buông câu, nhưng chí không ở cá, chẳng qua là ngồi đây chờ lúc đường mây rộng mở, thoả chí bình sinh mà thôi!”. Rồi ngâm rằng:
Ninh hướng trực trung thủ
Bất vi cẩm lân thiết
Bất hướng khúc trung cầu
Chỉ điếu vương dữ hầu
Nghĩa là
Thà rằng tìm bằng thẳng
Không phải là vì cá
Không muốn lấy bằng cong
Chỉ câu bậc hầu vương
Tây Bá hầu Cơ Xương sau khi từ Dữu Lý trở về Tây Kỳ, dốc lòng vào việc triều chính, khiến cho quốc thái dân an, nhân dân an cư lạc nghiệp. Ngay cả dân từ thành Triều Ca tỵ nạn đến Tây Kỳ cũng được đối đãi tử tế, chăm lo chu đáo. Một hôm, Cơ Xương đang nghỉ ngơi dưới Linh Đài, qua canh ba, chợt mơ thấy một con hổ trắng có cánh, chồm lên người mình, bèn giật mình tỉnh dậy, sợ đến toát mồ hôi lạnh. Hôm sau, ông kể lại giấc mơ cho đại thần Tán Nghi Sinh (sao Tả Phụ) nghe, Tán Nghi Sinh bèn nói: “Chúc mừng hầu gia, đó chính là điềm tốt, mách bảo rằng hầu gia sắp gặp được nhân tài làm rường cột, để kiến lập triều Chu”.
Cùng ngày hôm đó, Tán Nghi Sinh qua chợ, gặp được tiều phu Vũ Cát. Vũ Cát bèn thuật lại câu chuyện về ông già kỳ lạ bên sông Vị Thuỷ cho ông nghe. Tán Nghi Sinh suy ngẫm hồi lâu, ngờ rằng đây chính là nhân tài mà Tây Bá hầu đang muốn tìm. Ngày hôm sau, Cơ Xương dẫn theo các quan tả hữu xuất du, nhân thể tìm kiếm người hiền, đi về hướng Phàn Khê. Dọc đường, họ gặp một người tiều phu đang quảy gánh củi, vừa đi vừa hát rằng:
Xuân thuỷ du du xuân thảo kỳ
Thế nhân bất thức cao hiền chí
Kim lân vị ngộ ẩn Phàn Khê
Chỉ tác khê biên lão điếu ky
Nghĩa là:
Nước xuân dìu dặt cỏ xuân lạ
Người đời không biết chí cả cao
Lân vàng chưa gặp ẩn Phàn Khê
Làm người câu cá ở bên khe
Cơ Xương nghe lời ca, đột nhiên tỉnh ngộ mà thốt rằng: “Cao nhân nhất định ở quanh đây”. Thế nhưng tìm kiếm suốt ba ngày vẫn không thấy bóng dáng hiền sĩ. Đến ngày thứ tư Cơ Xương đem theo lễ vật, dẫn đầu bá quan, điều động đội binh mã mở đường, vua tôi rầm rộ tiến về Phàn Khê. Đến nơi, Cơ Xương một mình lặn lội vào trong rừng và bắt gặp Khương Tử Nha đang ngồi buông câu bên suối. Vốn dĩ Khương Tử Nha đã tiên đoán được rằng hôm nay Cơ Xương sẽ đến, nên làm như vô tình mà ca rằng:
Tây phong khởi hề bạch vân phi
Ngũ phượng minh hề chân chủ hiện
Tuế dĩ mộ hề tương yên vi
Thuỳ điếu ty hề ngã vi
Nghĩa là:
Gió tây nổi chừ mây trắng bay
Năm phượng hót chừ vua sáng hiện
Tuổi đã cao chừ làm chi đây?
Buông câu chừ hiểu ta ít thay!
Và vua sáng tôi hiền đã gặp nhau trong tình cảnh đó. Khương Tử Nha lúc này đã tám mươi tuổi, được phong làm Thừa tướng. Nhưng Chu Văn Vương qua đời khi sự nghiệp còn dang dở, trước lúc lâm chung, đã truyền ngôi lại cho Cơ Phát, và uỷ nhiệm Khương Tử Nha làm tướng phụ phò tá Chu Vũ Vương.
Tương truyền đài Phong Thần tại Tây Kỳ là do Khương Tử Nha vâng mệnh Nguyên Thuỷ Thiên Tôn kiến lập nên. Mục đích chủ yếu là để phong thần cho những người xả thân vì nước hoặc tử chiến trong giai đoạn An Trụ sắp diệt vong và trong quá trình Vũ Vương phạt Trụ, nhằm an ủi người đã khuất, khiến vong hồn của họ có nơi nương tựa. Khi sự nghiệp diệt Trụ của Vũ Vương đã thành công, chính quyền mới đã được kiến lập, mọi người đều đã được thụ phong tại đài Phong Thần, chỉ còn Khương Tử Nha vẫn sống thọ, chưa đến lúc về trời. Để hoàn thành nhiệm vụ phong thần, ông đã tự phong mình là chủ nhân của sao Thiên Cơ.
Có thể coi Khương Tử Nha là một khai quốc công thần hàng đầu của triều Chu. Ông một đời coi việc hưng vong của quốc gia là trách nhiệm của mình, mà không màng đến chuyện sống chết của bản thân. Dùng trí tuệ trác việt và mưu lược cao thâm của mình để hết lòng phò tá Vũ Vương hoàn thành đại nghiệp diệt Trụ. Ông còn sở hữu nhiều pháp thuật cao thâm (do là học trò của Nguyên Thuỷ thiên tôn) và sách lược cai trị, nên đã giúp ích rất nhiều cho chính quyền nhà Chu còn non trẻ.
Tài văn thao vũ lược cùng sự nghiêp huy hoàng của ông cho đến nay vẫn được truyền tụng rộng rãi. Bởi vậy không hề thái quá khi ông tự phong cho mình làm chủ quản sao Thien Cơ, chủ về “thiện lệnh” (gồm cả văn đức, vũ đức), trở thành nhân vật đại diện cho trí tuệ và “thiện thần” của Cung Huynh Đệ trong Tử Vi.
Khương Tử Nha qua sử sách
Khương Tử Nha là một nhân vật truyền kỳ rất đỗi quen thuộc, là người thông minh xuất chúng, rất phù hợp với tính cách của sao Thiên Cơ cai quản “thiện lệnh” trong Tử Vi Đẩu số. Ông là người trù bị những mưu lược quan trọng, là thống soái quân sự tối cao trong sự nghiệp diệt Trụ của Chu Vũ Vương, là khai quốc công thần của triều Chu, đồng thời là ông tổ của nước Tề, người khai sáng nên văn hoá Tề. Khương Tử Nha còn là một nhà thao lược, nhà quân sự và chính trị gia kiệt xuất dể lại nhiều ảnh huởng sâu đậm trong lịch sử Trung Quốc cổ đại.
Khương Tử Nha vốn họ Lã, tên Vọng, tự Tử Nha, hiệu Phi Hùng, còn được gọi là Lã Thượng. Thư tịch các đời đều xác nhận địa vị quan trọng của ông trong lịch sử. Các học phái Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Binh gia, Tung hoành gia đều truy nhận ông là nhân vật trong học phái của mình, nên ông được tôn là “Bách gia tông sư”.
Thay lời kết
Đặc trưng lớn nhất của Sao Thiên Cơ là Tính Thiện. Bản thân Sao Thiên cơ thích nhất là gặp gỡ các sao mang tính chất thông minh, chủ sự học vấn như Văn Xương, Văn Khúc, Tam Thai, Bát Tọa. Khi hội hợp được các cát diệu kể trên, Thiên Cơ càng trở nên mẫn tiệp, đa học, đa năng.
Ngược lại, nếu Sao Thiên Cơ lại hội hợp nhiều Hung, Sát tinh như Kình Dương, Đà La, Không Kiếp, sẽ phá đi những đức tính tốt đẹp của Thiên Cơ. Khiến Thiên Cơ tâm tư bất định, nhiều vất vả, lo lắng, mà thiếu đi hiệu quả thực tế…