PT 8 câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
PT 8 câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.03 KB, 3 trang )
Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc
nhất trong “Truyện Kiều”.
Hãy bình giảng 8 câu thơ sau đây:
“… Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
BÀI LÀM
“… Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc
Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường.
Chàng Kim đã đến tìm, lau giọt khóc
Và lò trầm đêm ấy toả bay hương…”
(“Đọc Kiều” – Chế Lan Viên)
Những vần thơ trên đây của Chế Lan Viên đã gợi thương gợi nhớ trong lòng ta về
cuộc đời bạc mệnh của người con gái tài sắc Thuý Kiều, và ta càng xúc động biết bao
trước tấm lòng nhân đạo bao la của Nguyễn Du, nhà thơ lớn của dân tộc.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm…” đoạn thơ 8 câu như thấm đầy lệ làm vương vấn
hồn ta: “Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc – Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên”
(Chế Lan Viên)
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ hay nhất của “Truyện Kiều”,
kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du. Bi kịch nội tâm của Thuý Kiều trên con đường lưu
lạc những ngày đầu đã được ngòi bút thiên tài của nhà thơ miêu tả qua hình thái ngôn ngữ
nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Những vần thơ buồn thương mệnh mang đã gieo vào
lòng người đọc nhiều xót xa khôn nguôi về những kiếp người “bạc mệnh” ngày xưa…
Sau khi bị lừa, bị “thất thân” với Mã Giám Sinh, rồi lại bị Tú Bà làm nhục, Kiều
dùng dao tự vẫn. Nghiệp chướng còn dài, nợ đời còn nặng – Nàng đã được cứu sống. Tú
Bà lập mưu mới, dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích.
Thân gái nơi đất khách quê người, lo âu bơ vơ. Những ngày bão tố, hãi hùng vừa
qua. Chặng đường phía trước mịt mờ, đầy cạm bẫy. Nàng cay
đắng và vô cùng đau khổ. Giờ đây, nàng sống một mình trong lầu Ngưng Bích với bao
tâm trạng “bẽ bàng, chán ngán”. Biết lấy ai, cùng ai tâm sự? Nỗi nhớ thương như lớp lớp
sóng dâng lểntong lòng. Kiều nhớ thương cha mẹ già yếu, không ai đỡ đần nương tựa
“quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? “Nàng nhớ chàng Kim “Bên trời góc bể bơ vơ – Tấm
son gột rửa bao giờ cho phai?”.
Sau nỗi nhớ là nỗi đau buồn tê tái, sự hoang mang và lo sợ triền miên… Nỗi đau
buồn như xé tâm can, cứ xiết chặt lấy hồn nàng. Đoạn thơ 8 câu đầy ắp tâm trạng. Nhà thơ
đã lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho sự vận động nội tâm của nhân vật trữ tình. Còn
đâu nữa cảnh vật thân quen ở vườn Thúy? Tất cả đều một cánh “hoa trôi man mác”, “nội
cỏ dầu dầu”, màu xanh xanh cảu mặt đất, chân mây, gió cuốn và tiếng sóng vỗ ầm ầm….
Chính những cảnh vật ấy, âm thanh ấy đã góp phần đặc tả tâm trạng Kiều; một bi kịch
đang giày vò tan nát lòng nàng suốt đêm ngày.
Mỗi một hình ảnh, một ngôn từ xuất hiện lại gợi ra trong tâm hồn người đọc một
trường liên tưởng chua xót về nỗi đau và số kiếp “bạc mệnh” của người con gái đầu lòng
Vương Viên ngoại. Mỗi một hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa tượng trưng cho nỗi lo âu và sợ
hãi của Kiều. “Cánh buồm xa xa” thấp thoáng trên “cửa bể chiều hôm” như gợi ra một
hành trình lưu lạc, mờ mịt:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”
Cánh “hoa trôi man mác” dồi lên đồi xuống giữa “ngọn nước mới sa” bao la, cũng là
tâm trạng lo âu cho thân phận nhỏ bé trôi dạt trên dòng đời vô địch:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
“Nội cỏ dầu dầu” vàng úa hiện lên giữa màu xnah “chân mây mặt đất” nơi mờ mịt
xa xăm đó là vũ trụ hay là cuộc đời tàn úa của nàng:
“Buồn trông ngọn cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
Và biển trời dữ dội “ầm ầm tiếng sóng” đang vỗ, đang “kêu”, đang bủa vây, như nói
lên sự lo âu, sợ hãi, nỗi khiếp sợ của Kiều:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
Mỗi câu thơ mỗi hình ảnh, ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên, miêu tả ngoại cảnh mang ý
nghĩa và giá trị như một ẩn dụ, một tượng trưng về tâm trạng đau khổ và số phận đen tối
của một kiếp người trong bể trầm luân.
Một hệ thống từ láy: thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm – tạo
nên âm điệu hiu hắt, trầm buồn, ghê sợ. Ở vị trí đầu dòng thơ, điệp ngữ “buồn trông” bốn
lần cất lên như một tiếng ai oán, não nùng kêu thương, diễn tả nét chủ đạo chi phối tâm
trạng Thuý Kiều làm cho người đọc vô cùng xúc động:
“… Buồn trông cửa bể chiều hôm,
… Buồn trông ngọn nước mới sa
… Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
… Buồn trông gió cuốn mặt duềnh…”
Tóm lại, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ kỳ diệu. Một bức tranh đa dạng,
phong phú về ngoại cảnh và tâm trạng khắc hoạ nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm
trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong 15 năm trời lưu lạc “thanh lâu
hai lựơt, thanh y hai lần”, có lửa nồng, có dấm thanh, cười ra tiếng khóc, khóc nên trận
cười…
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du vô cùng điêu luyện. Cảnh mang hồn
người. Cảnh và tình hoà hợp, sống động, hình tượng, biểu cảm. Tả cảnh để tả tình, trong
cảnh có tình, lấy cảnh để phô diễn tâm trạng, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”.
Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc. Nó gợi lên trong lòng mỗi chúng ta những xót
thương về con người tài sắc bạc mệnh. Một thái độ yêu thương, một tấm lòng nhân hậu,
cảm thông, chia sẻ của nhà thơ đối với nỗi đau của Thuý Kiều đã để lại ấn tượng sâu sắc
trong trái tim người đọc qua hàng thế kỷ nay. Như Tố Hữu đã viết: “Tố Như ơi! lệ chảy
quanh thân Kiều”.
Thân gái nơi đất khách quê người, lo âu bơ vơ. Những ngày bão tố, hãi hùng vừaqua. Chặng đường phía trước mịt mờ, đầy cạm bẫy. Nàng cayđắng và vô cùng đau khổ. Giờ đây, nàng sống một mình trong lầu Ngưng Bích với baotâm trạng “bẽ bàng, chán ngán”. Biết lấy ai, cùng ai tâm sự? Nỗi nhớ thương như lớp lớpsóng dâng lểntong lòng. Kiều nhớ thương cha mẹ già yếu, không ai đỡ đần nương tựa“quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? “Nàng nhớ chàng Kim “Bên trời góc bể bơ vơ – Tấmson gột rửa bao giờ cho phai?”.Sau nỗi nhớ là nỗi đau buồn tê tái, sự hoang mang và lo sợ triền miên… Nỗi đaubuồn như xé tâm can, cứ xiết chặt lấy hồn nàng. Đoạn thơ 8 câu đầy ắp tâm trạng. Nhà thơđã lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho sự vận động nội tâm của nhân vật trữ tình. Cònđâu nữa cảnh vật thân quen ở vườn Thúy? Tất cả đều một cánh “hoa trôi man mác”, “nộicỏ dầu dầu”, màu xanh xanh cảu mặt đất, chân mây, gió cuốn và tiếng sóng vỗ ầm ầm….Chính những cảnh vật ấy, âm thanh ấy đã góp phần đặc tả tâm trạng Kiều; một bi kịchđang giày vò tan nát lòng nàng suốt đêm ngày.Mỗi một hình ảnh, một ngôn từ xuất hiện lại gợi ra trong tâm hồn người đọc mộttrường liên tưởng chua xót về nỗi đau và số kiếp “bạc mệnh” của người con gái đầu lòngVương Viên ngoại. Mỗi một hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa tượng trưng cho nỗi lo âu và sợhãi của Kiều. “Cánh buồm xa xa” thấp thoáng trên “cửa bể chiều hôm” như gợi ra mộthành trình lưu lạc, mờ mịt:“Buồn trông cửa bể chiều hôm,Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”Cánh “hoa trôi man mác” dồi lên đồi xuống giữa “ngọn nước mới sa” bao la, cũng làtâm trạng lo âu cho thân phận nhỏ bé trôi dạt trên dòng đời vô địch:“Buồn trông ngọn nước mới saHoa trôi man mác biết là về đâu?”“Nội cỏ dầu dầu” vàng úa hiện lên giữa màu xnah “chân mây mặt đất” nơi mờ mịtxa xăm đó là vũ trụ hay là cuộc đời tàn úa của nàng:“Buồn trông ngọn cỏ dầu dầu,Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.Và biển trời dữ dội “ầm ầm tiếng sóng” đang vỗ, đang “kêu”, đang bủa vây, như nóilên sự lo âu, sợ hãi, nỗi khiếp sợ của Kiều:“Buồn trông gió cuốn mặt duềnhẦm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.Mỗi câu thơ mỗi hình ảnh, ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên, miêu tả ngoại cảnh mang ýnghĩa và giá trị như một ẩn dụ, một tượng trưng về tâm trạng đau khổ và số phận đen tốicủa một kiếp người trong bể trầm luân.Một hệ thống từ láy: thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm – tạonên âm điệu hiu hắt, trầm buồn, ghê sợ. Ở vị trí đầu dòng thơ, điệp ngữ “buồn trông” bốnlần cất lên như một tiếng ai oán, não nùng kêu thương, diễn tả nét chủ đạo chi phối tâmtrạng Thuý Kiều làm cho người đọc vô cùng xúc động:“… Buồn trông cửa bể chiều hôm,… Buồn trông ngọn nước mới sa… Buồn trông nội cỏ dầu dầu,… Buồn trông gió cuốn mặt duềnh…”Tóm lại, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ kỳ diệu. Một bức tranh đa dạng,phong phú về ngoại cảnh và tâm trạng khắc hoạ nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếmtrải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong 15 năm trời lưu lạc “thanh lâuhai lựơt, thanh y hai lần”, có lửa nồng, có dấm thanh, cười ra tiếng khóc, khóc nên trậncười…Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du vô cùng điêu luyện. Cảnh mang hồnngười. Cảnh và tình hoà hợp, sống động, hình tượng, biểu cảm. Tả cảnh để tả tình, trongcảnh có tình, lấy cảnh để phô diễn tâm trạng, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”.Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc. Nó gợi lên trong lòng mỗi chúng ta những xótthương về con người tài sắc bạc mệnh. Một thái độ yêu thương, một tấm lòng nhân hậu,cảm thông, chia sẻ của nhà thơ đối với nỗi đau của Thuý Kiều đã để lại ấn tượng sâu sắctrong trái tim người đọc qua hàng thế kỷ nay. Như Tố Hữu đã viết: “Tố Như ơi! lệ chảyquanh thân Kiều”.