Năng lực lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong cách mạng Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt của Đảng ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, được thể hiện rõ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta trong những năm qua. Nhân dịp đón Xuân Quý Mão – 2023, bài viết giới thiệu một số thành tựu nổi bật về năng lực lãnh đạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới.
1. Một số thành tựu về năng lực lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới
Đảng lãnh đạo xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Quan điểm và thể chế xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN được Đảng ta từng bước bổ sung, hoàn thiện. Nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta về Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân có bước phát triển mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn; chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và có những bước tiến quan trọng trong hoạt động. Vai trò của pháp luật cùng cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực trong tổ chức hoạt động, trong tổ chức thực hiện và trong quản lý xã hội của Nhà nước được đề cao và có nhiều tiến bộ. Quốc hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện. Hoạt động giám sát của Quốc hội đã tập trung vào những vấn đề bức thiết, quan trọng của đất nước. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm quốc gia có chất lượng hơn. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội có nhiều đổi mới về tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động, trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội được nâng cao. Chính phủ và các bộ đã tập trung vào quản lý, điều hành vĩ mô, năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng của đất nước. Cải cách hành chính tiếp tục đạt kết quả tích cực. Nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp được thể chế trong Hiến pháp, pháp luật và được triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt kết quả tốt. Tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động có nhiều tiến bộ, bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, hạn chế tình trạng oan sai.
(Ảnh minh họa)
Đảng lãnh đạo cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hoàn thiện thể chế và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đảng lãnh đạo Nhà nước cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện các đột phá chiến lược, nhất là các lĩnh vực trọng tâm. Năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng cao. Giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường bảo đảm khá hài hòa. Hiệu quả đầu tư xã hội, đầu tư công từng bước được cải thiện. Hệ thống tài chính, tín dụng được cơ cấu lại. Doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, đổi mới theo hướng tập trung vào những ngành chính. Cổ phần hóa được đẩy mạnh, thực hiện mô hình quản trị kinh doanh hiện đại, nâng cao tính công khai, minh bạch và hiệu quả. Công nghệ sản xuất được nâng cao về trình độ theo hướng hiện đại. Tỷ trọng công nghiệp chế tạo, chế biến trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng, tỉ trọng công nghiệp khai thác giảm. Khu vực thương mại, dịch vụ tăng trưởng khá, cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch phù hợp. Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến; nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng khai thác những lợi thế của nông nghiệp nhiệt đới. Việc ứng dụng khoa học – công nghệ, cơ giới hóa được nâng lên và xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ. Cơ cấu kinh tế vùng được quan tâm, có sự chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương. Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích cực, chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện. Đội ngũ doanh nhân đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội có bước phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, góp phần thúc đẩy quá trình tham gia vào mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhất là hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện. Vai trò, hiệu quả, sức cạnh tranh của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp được nâng lên. Môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện, bình đẳng và thông thoáng hơn. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành khá đồng bộ. Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế – xã hội. Việc huy động và phân bổ các nguồn lực với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội từng bước phù hợp với kinh tế thị trường. Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đa dạng về hình thức, thích ứng với chuẩn mực thị trường toàn cầu. Đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Đã đàm phán, ký kết, thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương thế hệ mới.
Đảng lãnh đạo xây dựng phát triển văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Việc lãnh đạo và thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế có bước chuyển quan trọng, đã gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng, phát triển bền vững đất nước, gắn xây dựng môi trường văn hóa với xây dựng con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, về tính chủ động, sáng tạo và khát vọng vươn lên. Hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa từng bước được tăng cường. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và tôn tạo. Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng mở rộng. Truyền thông đại chúng và du lịch phát triển nhanh cả về loại hình, quy mô, lực lượng và phương tiện kỹ thuật. Đời sống văn hóa của nhân dân được cải thiện, việc xây dựng môi trường văn hóa được chú trọng hơn. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường. Giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc. Chủ trương của Đảng gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con người đã trở thành tư tưởng chỉ đạo cho nhiều chương trình, kế hoạch phát triển. Các nghị quyết của Đảng về giáo dục, đào tạo được lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện đạt được những kết quả và chất lượng tốt. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện, từng bước hiện đại.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có bước phát triển về số lượng và chất lượng. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, công tác quản lý giáo dục, đào tạo có bước chuyển biến. Chủ trương của Đảng về đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho con người đã được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm nhận thức và chỉ đạo thực hiện. Trong những năm qua, khoa học và công nghệ đã có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế – xã hội. Khoa học xã hội và nhân văn góp phần quan trọng cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Khoa học tự nhiên, các ngành khoa học cơ bản, khoa học và công nghệ liên ngành tiếp tục phát triển, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Một số ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn đã có đóng góp tích cực phát triển kinh tế – xã hội và quốc phòng, an ninh.
Quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ có nhiều đổi mới. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ có bước tiến bộ. Thị trường khoa học, công nghệ hình thành và bước đầu phát huy tác dụng. Ngân sách nhà nước dành cho các chương trình quốc gia nhằm thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội gia tăng. Việt Nam đã hoàn thành hầu hết các mục tiêu Thiên niên kỷ. Đã thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Việc thực hiện chính sách chăm sóc người có công với nước được quan tâm. Thực hiện có hiệu quả các chính sách về người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số, chăm sóc sức khỏe cho người dân, tạo điều kiện để người dân chủ động phòng ngừa, giảm thiểu, khắc phục những rủi ro. Đời sống và thu nhập của người dân được nâng lên.
Đảng lãnh đạo tăng cường quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc Tổ quốc; nâng cao hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Đảng lãnh đạo bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội, kiên quyết đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Nhận thức về yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, về vị trí, vai trò của quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, về quan hệ đối tác, đối tượng được nâng cao và có bước phát triển. Đã chủ động, kiên quyết đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền, biển đảo, vùng trời, giữ được hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Chủ trương, giải pháp trong chiến lược quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân tiếp tục được củng cố. Sức mạnh mọi mặt của Quân đội và Công an được tăng cường. Kết hợp có hiệu quả giữa nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đấu tranh mạnh mẽ với âm mưu “diễn biến hòa bình”, hoạt động phá hoại, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, đối phó có hiệu quả với mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế được gia tăng tội phạm. Đảng đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ đúng đắn, sáng tạo, nên hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả quan trọng, tạo được môi trường hòa bình thuận lợi để phát triển. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu. Quan hệ với các nước láng giềng và các nước ASEAN được tăng cường.
Đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều nước. Hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, góp phần quan trọng vào việc tăng cường nguồn lực cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia có trách nhiệm vào các công việc chung, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai đồng bộ, hiệu quả. Nhiều chủ trương, giải pháp xử lý các vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề Biển Đông đã tạo được sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân và được dư luận quốc tế ủng hộ. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng và tăng cường.
Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội và các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, góp phần vào những thành tựu của công cuộc đổi mới. Đảng coi trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được toàn Đảng, toàn dân quan tâm và đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị được toàn Đảng coi trọng. Đảng kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, kiên định đường lối đổi mới. Đảng coi trọng giữ vững bản chất giai cấp công nhân và các nguyên tắc hoạt động. Năng lực hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng có nhiều tiến bộ. Công tác tư tưởng, lý luận của Đảng được nâng cao về chất lượng và hiệu quả, góp phần tạo ra sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Tích cực đấu tranh với những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh.
Đảng coi trọng rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên. Việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh Học tập và làm theo tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh đạt kết quả quan trọng. Tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu, nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn. Đảng chỉ đạo việc thí điểm một số mô hình đổi mới về tổ chức bộ máy chính quyền các cấp. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị từng bước được nâng lên. Công tác xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và việc phát triển, nâng cao chất lượng đảng viên được các cấp ủy đảng tập trung chỉ đạo thực hiện tốt. Số đảng viên mới kết nạp là đoàn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, phụ nữ, trí thức, học sinh, sinh viên, dân tộc thiểu số, người theo tôn giáo, người lao động trong các thành phần kinh tế tăng lên. Nhiều chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được cụ thể hóa, bảo đảm dân chủ, công minh hơn. Việc thực hiện lấy phiếu tín nhiệm cán bộ, trọng tâm là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp được dư luận đồng tình. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ đã thực hiện theo quy hoạch. Đã tiến hành xây dựng quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh chủ chốt của Đảng, Nhà nước. Quy định về thực hiện chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chức danh có tác dụng tốt. Việc thực hiện chính sách cán bộ trong hệ thống chính trị tiếp tục được chú trọng. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện và đạt nhiều kết quả. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được tăng cường, có hiệu lực, hiệu quả. Việc tham mưu, đề xuất, sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản mới của Đảng đồng bộ và phù hợp hơn.
Đảng tiếp tục củng cố, kiện toàn Ủy ban kiểm tra và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp. Đảng thể hiên quyết tâm chính trị trong đấu tranh PCTN, TC; thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN, TC. Nhận thức và thực tiễn đấu tranh PCTN, TC trong thời gian qua được nâng cao trong hệ thống chính trị. Nhiều vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp được phát hiện, điều tra, xử lý nghiêm minh, được nhân dân và dư luận đồng tình ủng hộ. Công tác dân vận của Đảng được quan tâm, đã áp dụng nhiều hình thức vận động, tập hợp nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và tích cực tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và các phong trào thi đua yêu nước. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, quy chế, quy định, quy trình công tác để thực hiện, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời, phát huy vai trò, chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở có bước tiến mới. Thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu được nâng cao. Đảng đã có nhiều đổi mới trong việc ra nghị quyết, coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Tiếp tục chủ trương cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, Nhà nước theo hướng giảm bớt thủ tục, giấy tờ, hội họp, v.v…
Đạt được những thành tựu nêu trên là do Đảng đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp thực hiện các nghị quyết của Đảng phù hợp với tình hình mới; là do Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân đã có nhiều cố gắng thực hiện chủ trương của Đảng. Đồng thời, cũng thể hiện năng lực lãnh đạo của Đảng ta trong điều kiện một đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
2. Trong những năm tới, Đảng cần tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo trên một số lĩnh vực sau:
Thứ nhất, tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đổi mới; vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; kiên định đường lối đổi mới. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển đất nước bền vững.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương. Tiếp tục đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng được đào tạo.
Thứ ba, thực hiện tốt mục tiêu mà Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng vừa qua đã đề ra: “Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “xây” và “chống”. Tạo bước phát triển mới của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh chính trị, thực sự là đạo đức, là văn minh, ngày càng gắn bó mật thiết với nhân dân, ngày càng được nhân đân tin tưởng; đủ uy tín và năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đồng thời, tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, tính hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đảng tập trung chỉ đạo, triển khai quyết liệt, toàn diện và đồng bộ việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII về “đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội”.
Thứ năm, tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng với dân, nên cần thực hiện tốt mục tiêu mà Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII của Đảng vừa qua đã đề ra: “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, nhất là bí thư cấp ủy đủ phẩm chất, năng lực, uy tín lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở đảng. Nâng cao chất lượng phát triển đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới”.
Thứ sáu, nâng cao năng lực lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực nhà nước cần rõ ràng, rành mạch, không trùng chéo, tạo ra sự hỗ trợ, tương tác và sự kiểm tra, giám sát lẫn nhau, tạo ra hiệu lực lớn và vận hành hiệu quả của của các cơ quan quyền lực trên cơ sở phát huy cao nhất sức mạnh của Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đây cũng là cơ sở pháp lý nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện hệ thống chính trị nước ta của Đảng.
Thứ bảy, nâng cao năng lực lãnh đạo hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kiên trì phấn đấu hoàn thiện cơ bản và đồng bộ hệ thống thể chế theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững. Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn nữa gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội một cách bền vững.
Thứ tám, tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh PCTN, TC, phải coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền và của toàn hệ thống chính trị. Là một đảng cầm quyền, Đảng cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, bảo đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch và thực hiện đồng bộ các giải pháp về PCTN, TC. Chú trọng giáo dục phẩm chất đạo đức và trách nhiệm công vụ. Quy định rõ trách nhiệm của người của người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị trong PCTN, TC. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử và xử lý nghiêm, đúng pháp luật hành vi tham nhũng, tiêu cực. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo sự thống nhất trong nhận thức và sự đồng thuận trong xã hội về PCTN, TC. Đảng ta khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ XHCN, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước trên con đường XHCN.
PGS. TS. Lê văn Yên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
TS. Nguyễn Thị Mộng Tuyền, Trường Đại học mở TP. Hồ Chí Minh