Một số nội dung cơ bản về thừa kế theo di chúc trong Bộ luật dân sự 2015

Thừa kế là một chế định quan trọng của BLDS 2015 điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc chuyển dịch tài sản từ người chết sang cho người thừa kế. BLDS 2015 quy định hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Thông qua bài viết này, Luật Tuệ Anh sẽ tìm hiểu và phân tích “một số nội dung cơ bản về thừa kế theo di chúc trong BLDS 2015” như: đưa ra các khái niệm liên quan, phân tích quy định về người lập di chúc, quyền của người lập di chúc và hình thức, nội dung của di chúc:

1. Các khái niệm:

– Thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống, tài sản để lại được gọi là di sản.

– Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết (Điều 624 BLDS 2015).

– Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người khác còn sống theo sự định đoạt của người đó trước khi chết được thể hiện trong di chúc.

– Người lập di chúc là người mà theo quy định của pháp luật có quyền lập di chúc để định đoạt khối tài sản của mình cho những người khác còn sống sau khi chết với ý chí hoàn toàn tự nguyện.

2. Người lập di chúc:

Theo quy định tại Điều 625 Bộ luật Dân sự năm 2015:

“Điều 625. Người lập di chúc

  1. Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.

  2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.”

Như vậy, người lập di chúc theo quy định pháp luật là “cá nhân” mà không phải là cơ quan, tổ chức. Căn cứ vào năng lực chủ thể của mỗi cá nhân trong việc nhận thức và thể hiện ý chí cũng như khả năng tạo lập được tài sản thuộc sở hữu của mình mà pháp luật quy định hai chủ thể là người có quyền lập di chúc gồm:

2.1. Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của BLDS 2015:

Người lập di chúc trong trường hợp này có hai điều kiện là:

  •  “người thành niên” và

  • “minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép”

Về quy định người thành niên trong BLDS 2015, Điều 20 Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định rằng “người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên”. Người thành niên luôn được coi là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp người đó bị mất năng lực hành vi dân sự (Điều 22 BLDS 2015), hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 23 BLDS 2015) hoặc bị khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (Điều 24 BLDS 2015). Pháp luật trao cho chủ thể này quyền lập di chúc bởi đây là chủ thể có khả năng nhận thức, thực hiện hành vi và tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

2.2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc:

Người lập di chúc trong trường hợp này có điều kiện là:

  • “người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi” và

  • “được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc”.

Quy định này khắc phục được sự băn khoăn về việc cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về vấn đề cho lập di chúc hay đồng ý về nội dung định đoạt tài sản trong di chúc mà Điều 647 trong Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa quy định rõ. Bên cạnh đó, quy định này căn cứ vào Điều 21 Bộ Luật Dân sự năm 2015: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch trừ giao dịch liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của pháp luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”

Những người ở độ tuổi này thường chưa nhận thức đầy đủ của việc thực hiện hành vi cũng như hậu quả của việc lập di chúc, vì vậy pháp luật quy định cần phải có sự kiểm soát của cha, mẹ hoặc người giám hộ.

3. Quyền của người lập di chúc:

Theo Điều 626 BLDS 2015, người lập di chúc có các quyền sau:

  • Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.

  • Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.

  • Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.

  • Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.

  • Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

4. Hình thức của di chúc:

Điều 627 BLDS 2015 quy định hình thức của di chúc như sau: “Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.” Như vậy di chúc có hai hình thức:

Một số nội dung cơ bản về thừa kế theo di chúc trong Bộ luật dân sự 2015

4.1. Di chúc bằng văn bản:

Di chúc bằng văn bản là hình thức khách quan, căn cứ pháp lý để công chứng tiến hành thủ tục khai nhận hoặc phân chia di sản thừa kế theo di chúc.

Di chúc bằng văn bản bao gồm (Điều 628 BLDS 2015):

  • Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

  • Di chúc bằng văn bản có người làm chứng

  • Di chúc bằng văn bản có công chứng.

  • Di chúc bằng văn bản có chứng thực.

4.2. Di chúc miệng:

Là sự bày tỏ bằng lời nói ý chí của người để lại di sản thừa kế lúc còn sống trong việc định đoạt khối di sản của mình cho người khác sau khi chết. BLDS 2015 quy định “trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng” (Khoản 1 Điều 629 BLDS 2015). Như vậy muốn lập di chúc bằng hình thức miệng, người lập di chúc phải thỏa mãn 2 điều kiện:

  • “tính mạng bị cái chết đe dọa” và

  • “không thể lập di chúc bằng văn bản”

Về hiệu lực của di chúc miệng: “Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.” (Khoản 2 Điều 629 BLDS 2015).

BLDS 2015 đã bỏ quy định về hình thức di chúc “Người dân tộc có quyền lập di chúc bằng tiếng nói hoặc chữ viết của dân tộc mình” (Điều 649 BLDS 2005). Do Điều 10 Luật công chứng 2006 và Điều 6 Luật công chứng 2014 đều có quy định “Tiếng nói và chữ viết dùng trong công chứng là tiếng Việt”. Như vậy, với việc bãi bỏ quy định trên đã loại trừ được xung đột pháp lý giữa hai văn bản pháp luật.

5. Nội dung di chúc:

Điều 631 BLDS 2015 quy định nôi dung di chúc như sau:

“1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:

a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;

b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;

c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;

d) Di sản để lại và nơi có di sản.

2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội dung khác.

3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.”

So với quy định của BLDS 2005, quy định về nội dung di chúc theo BLDS 2015 đơn giản, linh hoạt hơn. Vì thường di chúc ngoài các nội dung chủ yếu cần phải có, thì còn có rất nhiều nội dung phong phú khác mà người lập di chúc muốn đưa vào, như những lời dặn dò tâm huyết của họ trước khi chết. Những nội dung đó pháp luật rất khó dự liệu trước nên quy định mới bỏ các nội dung không phải cơ bản như: “xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản” và “ việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ”(K1 Đ653 BLDS 2005) bởi thực tế không phải di chúc nào cũng có các điều kiện, nội dung này.

Xem thêm các bài viết liên quan: