Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ>
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị. Về mặt giá trị sử dụng, tức hình thái tự nhiên của hàng hóa, ta có thể nhận biết trực tiếp được bằng các giác quan. Nhưng về mặt giá trị, tức hình thái xã hội của hàng hóa, nó không có một nguyên tử vật chất nào nên đủ cho người ta có lật đi lật lại mãi một hàng hóa, thì cũng không thể sờ thấy, nhìn thấy giá trị của nó. Giá trị chỉ có một tính hiện thực thuần túy xã hội, và nó chỉ biểu hiện ra cho người ta thấy được trong hành vi trao đổi, nghĩa là trong mối quan hệ giữa các hảng hóa với nhau. Chính vì vậy, thông qua sự nghiên cứu các hình thái biểu hiện của giá trị, chúng ta sẽ tìm ra nguồn gốc phát sinh của tiền tệ, hình thái giá trị nổi bật và tiêu biểu nhất.
a)Sự phát triển các hình thái giá trị
Sự phát triển các hình thái giá trị trong nền kinh tế hàng hóa được biểu hiện thông qua bốn hình thái cụ thể sau đây:
-Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên:
Đây là hình thái phôi thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hóa, khi trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác.
Ví dụ: 1m vải = 10 kg thóc.
Ở đây, giá trị của vải được biểu hiện ở thóc. Còn thóc là cái được dùng làm phương tiện để biểu hiện giá trị của vải. Với thuộc tính tự nhiên của mình, thóc trở thành hiện thân giá trị của vải. Sở dĩ như vậy vì bản thân thóc cũng có giá trị.
Trong ví dụ, giá trị của 1m vải, bản thân nó nếu đứng một mình thì không thể phản ánh được hay biểu hiện được giá trị của bản thân nó là bao nhiêu. Muốn biết được giá trị của 1m vải đó cần đem so sánh với giá trị của 10kg thóc, do đó hình thái giá trị của lm vải ở đây là hình thái tương đối, còn 10kg thóc không biểu hiện giá trị của bản thân nó được, trong mối quan hệ với vải, nó chỉ biểu hiện giá trị của vải nên nó là hình thái ngang giá của giá trị của vải. Nếu thóc muốn biểu hiện giá trị của mình, thì phải đảo ngược phương trình lại: l0kg thóc = 1m vải.
Hình thái giá trị tương đối và hình thái vật ngang giá là hai mặt liên quan với nhau, không thể tách rời nhau, đồng thời là hai cực đối lập của một phương trình giá trị. Trong hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên thì tỷ lệ trao đổi chưa thể cố định. Hình thái vật ngang giá của giá trị có ba đặc điểm: giá trị sử dụng của nó trở thành hình thức biểu hiện giá trị; lao động cụ thể trở thành hình thức biểu hiện lao động trừu tượng; lao động tư nhân trở thành hình thức biểu hiện lao động xã hội.
– Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng:
Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hóa này có thể quan hệ với nhiều hàng hóa khác. Tương ứng với giai đoạn này là hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng.
Đây là sự mở rộng hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên. Trong ví dụ trên, giá trị của 1m vải được biểu hiện ở 10kg thóc hoặc 2 con gà hoặc 0,1 chỉ vàng. Như vậy, hình thái vật ngang giá đã được mở rộng ra ở nhiều hàng hóa khác nhau. Tuy nhiên, vẫn là trao đổi trực tiếp, tỷ lệ trao đổi chưa cố định.
– Hình thái chung của giá trị
Với sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hàng hóa được đưa ra trao đổi thường xuyên, đa dạng và nhiều hơn. Nhu cầu trao đổi do đó trở nên phức tạp hơn, người có vải muốn đổi thóc, nhưng người có thóc lại không cần vải mà lại cần thứ khác. Vì thế, việc trao đổi trực tiếp không còn thích hợp và gây trở ngại cho trao đổi. Trong tình hình đó, người ta phải đi con đường vòng, mang hàng hóa của mình đổi lấy thứ hàng hóa mà nó được nhiều người ưa chuộng, rồi đem hàng hóa đó đổi lấy thứ hàng hóa mà mình cần. Khi vật trung gian trong trao đổi được cố định lại ở thứ hàng hóa được nhiều người ưa chuộng, thì hình thái chung của giá trị xuất hiện.
Ở đây, tất cả các hàng hóa đều biểu hiện giá trị của mình ở cùng một thứ hàng hóa đóng vai trò là vật ngang giá chung. Tuy nhiên, vật ngang giá chung chưa ổn định ở một thứ hàng hóa nào. Các địa phương khác nhau thì hàng hóa dùng làm vật ngang giá chung cũng khác nhau.
– Hình thái tiền tệ:
Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa, sản xuất hàng hóa và thị trường ngày càng mở rộng, thì tình trạng có nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó khăn, do đó dẫn đến đòi hỏi khách quan phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố định lại ở một vật độc tôn và phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị.
Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng về sau được cố định lại ở kim loại quý: vàng, bạc và cuối cùng là vàng. Sở dĩ bạc và vàng đóng vai trò tiền tệ là do những ưu điểm của nó như: thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, khôns hư hỏng, với một lượng và thể tích nhỏ nhưng chứa đựng một lượng giá trị lớn. Tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hóa được phân thành hai cực: một bên là các hàng hóa thông thường; còn một bên là hàng hóa (vàng) đóng vai trò tiền tệ. Đến đây giá trị các hàng hóa đã có một phương tiện biểu hiện thống nhất. Tỷ lệ trao đổi được cố định lại.
b)Bản chất của tiền tệ
Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hóa, là sản phẩm của quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa. Các nhà kinh tế trước C.Mác giải thích tiền tệ từ hình thái phát triển cao nhất của nó, bởi vậy đã không làm rõ được bản chất của tiền tệ. Trái lại, C.Mác nghiên cứu tiền tệ từ lịch sử phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, từ sự phát triển của các hình thái giá trị hàng hóa, do đó đã tìm thấy nguồn gốc và bản chất của tiền tệ.
Vậy, tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.
Ban chất của tiền tệ còn được thể hiện qua các chức năng của nó.
Loigiaihay.com