Lập luận là gì? Các phương pháp lập luận trong văn nghị luận?
Lập luận là gì? Lập luận được biết đến với tên trong tiếng Anh là gì? Các phương pháp lập luận trong văn nghị luận?
Trên thực tế hiện nay thì vấn đề đưa ra các lập luận của một chủ thể đối với bất kỳ một vấn đề nào đó thì không phải điều gì quá cao xa và khó bắt gặp. Bởi vì lập luận là một trong những phương pháp và cách thức rất phổ biến để một chủ thể sử dụng nó trong cuộc sống hàng ngày. Cũng như việc sử dụng lập luận trong các văn bản nghị luận. Do đó mà lập luận lại được nhận định là một phần không thể thiếu trong quá trình các chủ thể xây dựng một văn bản nghị luận. Vậy lập luận ở đây được định nghãi là gì? Các phương pháp lập luận trong văn nghị luận được quy định ra sao? Hãy tìm hiểu nội dung liên quan đến vấn đề này trong bài viết dưới đây:
Luật sư tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568
1. Lập luận là gì?
Trong logic và triết học, một lập luận là một loạt các phát biểu, được gọi là tiền đề, nhằm xác định mức độ trung thực của một phát biểu khác, kết luận. Hình thức lôgic của một lập luận bằng ngôn ngữ tự nhiên có thể được biểu diễn bằng một ngôn ngữ hình thức tượng trưng và độc lập với ngôn ngữ tự nhiên, các “lập luận” đã được định nghĩa chính thức có thể được thực hiện trong toán học và khoa học máy tính.
Logic học là môn học nghiên cứu các hình thức lập luận trong các luận cứ và xây dựng các tiêu chuẩn, tiêu chí để đánh giá các luận điểm. Lập luận suy luận có thể hợp lệ và những lập luận hợp lệ có thể hợp lý: trong một lập luận hợp lệ, các sơ suất cần có kết luận, ngay cả khi một hoặc nhiều tiền đề là sai và kết luận là sai; trong một lập luận đúng đắn, tiền đề thực sự cần có một kết luận đúng.
Ngược lại, các lập luận quy nạp có thể có các mức độ logic khác nhau: lập luận càng mạnh hoặc càng nhiều thì xác suất kết luận đúng càng lớn, lập luận càng yếu thì xác suất đó càng thấp. Các tiêu chuẩn để đánh giá các lập luận không suy diễn có thể dựa trên các tiêu chí khác hoặc bổ sung hơn là sự thật – ví dụ, tính thuyết phục của cái gọi là “tuyên bố không thể thiếu” trong các lập luận siêu nghiệm, chất lượng của các giả thuyết trong việc tái tạo hoặc thậm chí là tiết lộ những khả năng mới để suy nghĩ và hành động.
Có một số loại lập luận trong logic, trong đó nổi tiếng nhất là “suy diễn” và “quy nạp”. Một lập luận có một hoặc nhiều tiền đề nhưng chỉ có một kết luận. Mỗi tiền đề và kết luận là những người mang chân lý hoặc “ứng cử viên chân lý”, mỗi tiền đề có thể đúng hoặc sai (nhưng không phải cả hai). Những giá trị chân lý này phụ thuộc vào thuật ngữ được sử dụng với các lập luận.
Trên thực tê thì lập luận hay phương pháp lập luận trong văn nghị luận thì được biết đến là cách thức lựa chọn và thực hiện hoạt động sắp xếp luận điểm, luận cứ sao cho lập luận chặt chẽ và thuyết phục nhất có thể trong một đoạn văn mà tác giả đã tạo ra.
Xem thêm: Đoàn kết là gì? Nghị luận về sức mạnh của tinh thần đoàn kết?
2. Lập luận được biết đến với tên trong tiếng Anh là gì?
Lập luận được biết đến với tên trong tiếng Anh là: “Arguments”.
Xem thêm: Thành công là gì? Nghị luận xã hội về sự thành công trong cuộc sống?
3. Các phương pháp lập luận trong văn nghị luận?
– Lập luận suy luận
Một lập luận suy diễn khẳng định rằng sự thật của kết luận là hệ quả hợp lý của các tiền đề. Dựa trên các tiền đề, kết luận sau nhất thiết phải có (một cách chắc chắn). Ví dụ, các tiền đề cho trước rằng A = B và B = C, thì kết luận nhất thiết phải tuân theo rằng A = C. Lập luận suy diễn đôi khi được coi là lập luận “bảo vệ sự thật”.
Một lập luận suy diễn được cho là hợp lệ hoặc không hợp lệ. Nếu một người giả định các tiền đề là đúng (bỏ qua các giá trị chân lý thực tế của chúng), liệu kết luận có chắc chắn theo sau không? Nếu có, đối số là hợp lệ. Nếu không, nó không hợp lệ. Trong việc xác định tính hợp lệ, cấu trúc của lập luận là yếu tố cần thiết cho việc xác định, chứ không phải các giá trị chân lý thực tế. Ví dụ, hãy xem xét lập luận rằng vì dơi có thể bay (tiền đề = đúng), và tất cả các sinh vật bay là chim (tiền đề = sai), do đó dơi là chim (kết luận = sai). Nếu chúng ta giả sử các tiền đề là đúng, thì kết luận nhất thiết phải tuân theo và đó là một đối số hợp lệ.
Nếu một lập luận suy diễn là hợp lệ và các tiền đề của nó đều đúng, thì nó cũng được gọi là đúng. Nếu không, nó là không chắc chắn, vì “dơi là chim”.
Nếu tất cả các tiền đề của một lập luận suy diễn hợp lệ là đúng, thì kết luận của nó phải đúng. Không thể có kết luận sai nếu tất cả các tiền đề đều đúng.
– Lập luận quy nạp
Lập luận quy nạp khẳng định rằng sự thật của kết luận được hỗ trợ bởi xác suất của tiền đề.
Một lập luận quy nạp được cho là mạnh hay yếu. Nếu tiền đề của một lập luận quy nạp được giả định là đúng, thì liệu kết luận có đúng không? Nếu có, lập luận là mạnh mẽ. Nếu không, nó là yếu.
Một lập luận chặt chẽ được cho là hợp lý nếu nó có tất cả các tiền đề đúng. Nếu không, lập luận là vô nghĩa. Ví dụ về lập luận ngân sách quân sự là một lập luận chặt chẽ, chặt chẽ.
– Phương pháp loại suy luận
Một lập luận suy diễn, nếu hợp lệ, có một kết luận được đưa ra bởi các tiền đề của nó. Chân lý của kết luận là hệ quả lôgic của tiền đề Nếu tiền đề là đúng thì kết luận phải đúng. Sẽ là tự mâu thuẫn nếu khẳng định tiền đề và phủ nhận kết luận, bởi vì phủ định kết luận là mâu thuẫn với chân lý của tiền đề.
– Phương pháp ngụy biện
Các lập luận suy diễn có thể hợp lệ hoặc không hợp lệ. Nếu một lập luận hợp lệ, nó là một suy luận hợp lệ, và nếu những tiền đề của nó là đúng, thì kết luận phải đúng: một lập luận hợp lệ không thể có những tiền đề đúng và một kết luận sai.
Một lập luận có giá trị chính thức nếu và chỉ khi việc phủ nhận kết luận không phù hợp với việc chấp nhận tất cả các tiền đề.
– Phương pháp lập luận chứng minh
Logic tìm cách khám phá các dạng làm cho các đối số hợp lệ. Một dạng lập luận có giá trị nếu và chỉ khi kết luận là đúng theo mọi cách diễn giải của lập luận đó trong đó các tiền đề là đúng. Vì tính hợp lệ của một đối số phụ thuộc vào hình thức của nó, một đối số có thể được chỉ ra là không hợp lệ bằng cách cho thấy rằng hình thức của nó không hợp lệ. Điều này có thể được thực hiện bằng một ví dụ phản bác của cùng một dạng lập luận với các tiền đề là đúng theo cách hiểu đã cho, nhưng một kết luận lại là sai theo cách diễn giải đó. Trong logic không chính thức, điều này được gọi là đối số phản.
– Phương pháp phân tích
Lập luận bằng phép loại suy có thể được coi là lập luận từ cụ thể đến cụ thể. Lập luận bằng phép loại suy có thể sử dụng một chân lý cụ thể làm tiền đề để lập luận hướng tới một chân lý cụ thể tương tự trong phần kết luận.
Những kiểu khác
– Phương pháp giải thích
Tính hợp lệ của một lập luận không phụ thuộc vào sự thật hay sai của các tiền đề và kết luận của nó, mà vào việc liệu lập luận có hình thức logic hợp lệ hay không. Tính hợp lệ của một lập luận không phải là sự đảm bảo về tính trung thực của kết luận của nó. Một lập luận hợp lệ có thể có tiền đề sai khiến nó không thể kết luận được: kết luận của một lập luận hợp lệ với một hoặc nhiều tiền đề sai có thể đúng hoặc sai.
– Phương pháp bình luận
Hình thức của một lập luận có thể được thể hiện bằng cách sử dụng các ký hiệu. Đối với mỗi dạng đối số, có một dạng câu lệnh tương ứng, được gọi là một điều kiện tương ứng và một dạng đối số hợp lệ nếu và chỉ khi điều kiện tương ứng của nó là một chân lý logic. Một dạng tuyên bố đúng về mặt logic cũng được cho là một dạng tuyên bố hợp lệ. Một dạng tuyên bố là một chân lý logic nếu nó đúng theo mọi cách hiểu. Một dạng tuyên bố có thể được chứng minh là chân lý lôgic bằng cách (a) cho thấy rằng nó là một phép suy luận hoặc (b) bằng một thủ tục chứng minh.
Điều kiện tương ứng của một lập luận hợp lệ là chân lý cần thiết (đúng trong tất cả các trường hợp có thể xảy ra) và do đó, kết luận nhất thiết phải tuân theo tiền đề, hoặc tuân theo sự cần thiết hợp lý. Kết luận của một lập luận xác đáng không nhất thiết là đúng, nó phụ thuộc vào các tiền đề có đúng hay không. Nếu bản thân kết luận là một sự thật cần thiết, thì đó là sự thật mà không cần quan tâm đến tiền đề.
Như vậy, có thể thấy rằng trong một bài văn nghị luận thì phương pháp lập luận là một trong những phương pháp không thể nào thiếu được trong quá trình hình thàng văn bản này. Tác giả dựa vào phương pháp này để so sánh hai đối tượng đồng thời sẽ dựa vào đó để tìm ra những thuộc tính giống nhau của các đối tượng trọng văn nghị luận này, từ đó có thể suy ra chúng có cùng một thuộc tính giống nhau khác của đối tượng. Hay là nhận định dựa trên một phương pháp xuất phát từ một thực tế hiển nhiên để suy ra những kết luận chủ quan nhằm bác bỏ ý kiến của đối phương.