Kỹ thuật trồng cây măng cụt

Măng cụt được Bộ Nông nghiệp và PTNT khuyến khích trồng do diện tích canh tác ở nước ta và cả thế giới chưa đáp ứng đủ nhu cầu người tiêu dùng. Cây măng cụt trồng rất thích hợp ở miền Đông và miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các tỉnh ĐBSCL.

Chuẩn bị đất

Cày
bừa kỹ, lên liếp và đào hố như những loại cây ăn trái khác. Trồng với
khoảng cách 7-10m (mật độ 100-200cây/ha). Không nên trồng quá dày, vì
cây có tán lớn (7-10m sau 30 năm tuổi). Nếu trồng xen trong vườn dừa,
nên đặt cây giữa 4 gốc dừa.

Kỹ thuật trồng

Cây
con cao 50cm, trước khi trồng nên cắt bớt phiến lá còn 1/2 để giảm
thoát nước. Nên trồng cây con vào đầu mùa mưa để giảm chi phí tưới.

Cây
con khó sống ngoài trảng, nên cần được che mát 4-5 năm đầu. Có thể
trồng xen măng cụt với chuối hoặc xen dưới tán dừa để che mát, nhất là
những vùng mùa khô kéo dài. ở vườn trồng thuần măng cụt, có thể trồng
xen những cây ngắn ngày để tăng thu nhập. Măng cụt trồng xen trong vườn
dừa không cần trồng xen thêm những cây khác. Chấm dứt xen khi cây đã
trưởng thành (8-10 năm tuổi). Sau khi ngưng trồng xen, cần che phủ đất
bằng những cây họ Đậu, nhất là trong mùa khô để giảm bốc hơi nước (tránh
ít nhất ở 30cm xung quanh gốc đến tán cây).

Cấp- thoát nước

Rễ
măng cụt tiếp xúc với đất kém, khó hút nước, vì vậy cần tưới và chăm
sóc thường xuyên. Tuy nhiên, nếu bị ngập cây sẽ chết, do đó trong mùa
mưa cần chú ý thoát nước tốt.

Phân bón

Măng
cụt rất ưa phân chuồng. Ngoài ra, bón đạm cũng giúp cây tăng trưởng
nhanh. Hiện chưa có nghiên cứu nào khuyến cáo công thức phân cho măng
cụt. Nhưng theo kinh nghiệm của một số nhà vườn chuyên canh, bà con có
thể áp dụng theo cách sau:

Trong
năm đầu có thể bón 50-100g phân S.A/cây (hoặc 20-40g urê) vào 1 tháng
sau khi trồng và 50-100g S.A (hoặc 20-40g urê) vào 6 tháng sau.

– Nên tăng dần lượng phân trong giai đoạn tăng trưởng.

Khi cây bắt đầu cho trái, bón 500g/cây phân NPK 20-20-15 vào đầu và cuối mùa mưa. Lượng phân tăng khi cây lớn và cho nhiều trái.

Cây
trưởng thành có thể bón từ 2kg NPK/năm. Các vườn măng cụt năng suất cao
ở ĐBSCL thường bón 1,5kg DAP và 1,5kg urê/gốc vào cuối mùa mưa (tháng
10 đến 01 dương lịch năm sau), một số vườn cũng kết hợp với biện pháp
bồi sình, rải lá và cỏ mục (1-3 năm/lần) để cung cấp thêm dinh dưỡng cho
cây.

Cắt tỉa

Lúc
đầu có thể cắt bỏ những cành yếu, cành vượt để cây mọc tốt. Khi cây cao
8-10m, cắt ngọn để giảm chiều cao, tạo tán ngang giúp cây dễ phát
triển.

Phòng trị sâu bệnh

Trị sâu ăn lá bằng các loại thuốc thông dụng như Cyperan, Peran 50 EC, Kinalux 25 EC,…

Rệp
dính sống thành tập đoàn ở mặt dưới lá (và nhện đỏ, bọ xít) làm cây
kiệt sức. Phun Bassan 50 EC, Actara 25 WG, Bian 40 EC, Supracide 40
ND,… khi thấy chúng xuất hiện.

Bệnh
đốm rong tạo thành các đốm đồng tiền loang lổ màu xám xanh hoặc vàng
trên thân, cành cây. Phun hỗn hợp thuốc như Carban 50 SC, Bordeaux, Copper-zinc, Coppor B… hoặc dùng vôi quét tường phết lên vết bệnh.

Chảy
nhựa vàng: Do sâu gây ra hoặc rễ bị tổn thương bởi gió to, bão… Trong
thời gian 2-8 tuần trước khi thu hoạch có mưa liên tục và mưa to, quả
măng cụt rất dễ bị bệnh chảy nhựa vàng, nặng thì quả thành đắng, không
ăn được. Do đó cần lưu ý để khắc phục.

Thu hoạch

Măng
cụt cho trái sau 10-15 năm trồng nhưng cây có thể sống trên 50 năm. Cây
tốt có thể cho trái sau 7-8 năm trồng (vùng Lái Thiêu). Tại miền Nam
nước ta, măng cụt trổ hoa vào tháng 1-2 dương lịch và bắt đầu thu trái
từ tháng 5 đến tháng 8 dương lịch, có khuynh hướng cho trái cách năm.
Cây 7 năm tuổi chỉ cho khoảng 10 trái bói (1kg). Cây 8 tuổi cho 40 trái,
cây 9 tuổi 100 trái. Cây 15 năm tuổi cho 600-800 trái (60-80kg).

Thu
hoạch khi trái đã chuyển màu đỏ là thuận lợi nhất, vì có thể bảo quản
được 7-10 ngày; số múi trong và số quả bị cứng vỏ thấp.

Tồn trữ


thể trữ lạnh nhiều tuần. Sau 7 ngày tồn trữ ở nhiệt độ bình thường,
trái chỉ bị giảm 3,3% trọng lượng, nhưng có thể thối 23,9%. Trữ ở 5 độ C
không bị giảm trọng lượng và chỉ 11% số trái bị thối. Tốt nhất nên giữ
trái trong bao plastic kín để ít bị thiệt hại. Nên chọn những trái tròn
trịa, không bị trầy xước để chuyên chở xa.

Kinh tế nông thôn