Khái niệm về chất lượng dịch vụ – Khóa luận tốt nghiệp Quản trị kinh doanh: Đánh giá chất lượng –
Một phần của tài liệu KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP QUẢN TRỊ KINH DOANH: ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ CHĂM SÓC KHÁCH HÀNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN LỘC ĐẤT VIỆT
6. Kết cấu đề tài
1.1.5.2. Khái niệm về chất lượng dịch vụ
Nhiều nhà nghiên cứu đãđưa ra nhữngđịnh nghĩa khác nhau vềchất lượng dịch vụ:
“Chất lượng dịch vụ là mức độ mà một dịch vụ đáp ứng được nhu cầu và sự
mong đợi của khách hàng” (Lewis và Mitchell, 1990).
“Chất lượng dịch vụlà mức độkhác nhau giữa sự mong đợi của người tiêu dùng
về dịch vụ và nhận thức của họ về kết quả của dịch vụ” (Parasuraman & ctg , 1988,
trang 17).
“Chất lượng dịch vụ như là một hình thức của thái độ khách hàng thể hiện quan
việc đánh giá tổng thểvềdịch vụnày trong dài hạn” (Crolin & Taylor, 1994).
1.1.5.3. Mối quan hệgiữa chất lượng dịch vụvà sựhài lòng của khách hàng
Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng là chủ đề
được các nhà nghiên cứu đưa ra bàn luận liên tục trong các thập kỷ qua. Nhiều nghiên
cứu về sự hài lòng của khách hàng trong các ngành dịch vụ đãđược thực hiện.Một số
tác giả cho rằng giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng có sự trùng
khớp vì thế hai khái niệm này có thể sử dụng thay thế cho nhau.
Tuy nhiên, qua nhiều nghiên cứu cho thấy chất lượng dịch vụ và sự hài lòng
khách hàng là hai khái niệm phân biệt.Parasuraman và các cộng sự (1993), cho rằng
giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng khách hàng tồn tại một số khác biệt, mà điểm
hài lòng của khách hàng bị tác động bởi nhiều yếu tố như: chất lượng sản phẩm, chất
lượng dịch vụ, giá cả, yếu tố tình huống, yếu tố cá nhân.
Chất lượng dịch vụ và sự hài lòng tuy là hai khái niệm khác nhau nhưng có liên
hệ chặt chẽ với nhau trong nghiên cứu về dịch vụ (Parasuraman và các cộng sự 1988).
Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy chất lượng dịch vụ là nguyên nhân dẫn đến sự
thoả mãn (Cronin và Taylor, 1992; Spreng và Taylor, 1996). Lý do là chất lượng dịch
vụ liên quan đến việc cung cấp dịch vụ, còn sự thoả mãn chỉ đánh giá được sau khi đã
sử dụng dịch vụ.
Hài lòng của khách hàng xem như kết quả, chất lượng dịch vụ xem như là
nguyên nhân, hài lòng có tính chất dự báo, mong đợi; chất lượng dịch vụ là một chuẩn
lý tưởng. Sự thỏa mãn khách hàng là một khái niệm tổng quát, thể hiện sự hài lòng của
họ khi tiêu dùng một dịch vụ.Trong khi đó chất lượng dịch vụ chỉ tập trung vào các
thành phần cụ thể của dịch vụ (Zeithaml & Bitner, 2000).Tuy giữa chất lượng dịch vụ
và sự hài lòng có mối liên hệ với nhau nhưng có ít nghiên cứu tập trung vào việc kiểm
định mức độ giải thích của các thành phần chất lượng dịch vụ đối với sự hài lòng, đặc
biệt đối với từng ngành dịch vụ cụ thể (Lassar và các cộng sự, 2000). Cronin and
Taylor đã kiểm định mối quan hệ này và kết luận cảm nhận chất lượng dịch vụ dẫn
đến sự thỏa mãn khách hàng. Các nghiên cứu đã kết luận rằng chất lượng dịch vụ là
tiền đề của sự thỏa mãn (Cronin và Taylor, 1992; Spereng, 1996) và là nhân tố chủ yếu
ảnh hưởng đến sự thỏa mãn (Ruyter, Bloemer, 1997).
Tóm lại, chất lượng dịch vụ là nhân tố tác động nhiều đến sự hài lòng của khách
hàng.Nếu nhà cung cấp dịch vụ đem đến cho khách hàng những sản phẩm có chất
lượng thỏa mãn nhu cầu của họ thì nhà mạng đó đã bước đầu làm cho khách hàng hài
lòng. Do đó, muốn nâng cao sự hài lòng khách hàng, nhà cung cấp dịch vụ phải nâng
cao chất lượng dịch vụ.
Nói cách khác, chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng có quan hệ chặt
chẽ với nhau, trong đó chất lượng dịch vụ là cái tạo ra trước, quyết định đến sự hài
lòng của khách hàng.Mối quan hệ nhân quả giữa hai yếu tố này là vấn đề then chốt
trong hầu hết các nghiên cứu về sự hài lòng của khách hàng. Nếu chất lượng được cải
thiện nhưng không dựa trên nhu cầu của khách hàng thì sẽ không bao giờ khách hàng
thoả mãn với dịch vụ đó. Do đó, khi sử dụng dịch vụ, nếu khách hàng cảm nhận được
dịch vụ có chất lượng cao thì họ sẽ thoả mãn với dịch vụ đó. Ngược lại nếu khách
hàng cảm nhận dịch vụ có chất lượng thấp thì việc không hài lòng sẽ xuất hiện.
1.1.5.4. Các mô hình nghiên cứu liên quan đến chất lượng dịch vụ chăm sóc
khách hàng
a. . Mô hình SERVQUAL
Parasuraman và cộng sự (1985,1988, 1991) là một trong những người đi tiên
phong nghiên cứu chất lượng dịch vụcụthểvà chi tiết. Thành công của nghiên cứu tạo
phương tiện đột phá giúp nhà kinh doanh có được kết quả chất lượng dịch vụ của họ
thông qua việc nghiên cứu những đánh giá của khách hàng – người sử dụng dịch vụ.
Để đánh giá sự hài lòng của khách hàng đến chất lượng dịch vụcần sửdụng thang đo
SERVQUAL được ghép từ2 từService –dịch vụvà Quality – chất lượng, đây là thang
đo được khá nhiều nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là khá toàn diện. Nghiên cứu của
Parasuraman (1985) cho rằng chất lượng dịch vụ là khoảng cách giữa kỳ vọng của
khách hàng về dịch vụ mà họ đang sử dụng với cảm nhận thực tế về dịch vụ mà họ
hưởng thụ (hình 2.1)
Hình 2.1 Khoảng cách chất lượng dịch vụ
(Nguồn: Parasuraman, 1985,1988, 1991)
Thông tin
truyền miệng
Nhu cầu cá
nhân
Kinh
nghiệm quá
khứ
Thông tin bên
ngoài Dịch vvọngụkỳ
Dịch vụcảm
nhận
Nhận thức vềchất
lượng dịch vụ
Mô hình 5 khoảng cách được xây dựng để định vị các nguyên nhân ảnh hưởng
đến chất lượng dịch vụ( Hình 2.2).
Khoảng cách [5]
Khoảng cách [4]
Khoảng cách [3]
Khoảng cách [2]
Hình 2.2: Mô hình Servqual về5 khoảng cách của chất lượng dịch vụ
Khoảng cách thứ nhất (KC1): Xuất hiện khi kỳ vọng của khách hàng về chất
lượng dịch vụ có sự khác biệt với cảm nhận của nhà quản trị dịch vụ.
Khoảng cách thứ hai (KC2): Xuất hiện khi công ty gặp khó khăn trong việc
xây dựng những tiêu chí chất lượng dịch vụ sao cho phù hợp với những nhận định về
kỳ vọng dịch vụ khách hàng.
Khoảng cách thứ ba (KC3): Là sựkhác biệt giữa chất lượng dịch vụcung cấp
thực tế với những tiêu chí chất lượng dịch vụ mà công ty đưa ra.
Khoảng cách thứ tư (KC4): Là biểu hiện cho sự khác biệt về những hứa hẹn
trong các chương trình quảng cáo khuyến mãi với những thông tin thực tế về dịch vụ
cung cấp mà khách hàng nhân được.
Khoảng cách thứ năm (KC5): Chính là khoảng cách chất lượng dịch vụ của
công ty. Chất lượng dịch vụ được coi là hoàn hảo khi khoảng cách thứ năm này bằng
0.
Dịch vụ kỳ vọng
Dịch vụ cảm nhận
Dịch vụ chuyển giao
Chuyển đổi cảm nhận
thành tiêu chí chất lượng
Nhận thức về kỳ vọng của
khách hàng
Thông tin đến
khách hàng
Kh
oả
ng
các
h
[1
]
KH
ÁC
H
HÀ
N
G
N
HÀ
T
IẾ
P
TH
Ị(
C
U
N
G
Ứ
N
G
DỊ
CH
V
Ụ
)
Mô hình này có ưu điểm là bao quát hầu hết mọi khía cạnh của dịch vụ, tuy
nhiên rất khó khăn trongviệc đánh giá và phân tích. Do vậy, sau nhiều lần hiệu chỉnh,
1988 Parasuraman đã cho rađời thang đo SERVQUAL.
Parasuraman và cộng sự (1985) cho rằng bất kỳ dịch vụ nào, chất lượng dịch vụ
cảm nhận bởi khách hàng bao gồm 10 chỉ tiêu để đánh giá như sau: tin cậy, đáp ứng,
năng lực phục vụ, tiếp cận, lịch sự, thông tin, tín nhiệm, an toàn, hiểu biết khách hàng,
phương tiện hữu hình.
Nếu chúng ta sử dụng 10 thành phần của chất lượng dịch vụnêu trên sẽ bao quát
hết được mọi khía cạnh của dịch vụ tuy nhiên sẽrất phức tạp cho việc đo lường. Chính
vì vậy, các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm mô hình và rút ra kết luận là chất lượng dịch
vụsẽ bao gồm 5 thành phần cơ bản (Parasuraman và cộng sự 1988, 1991)
– Sự tin tưởng (reliability): Là khả năng thực hiện dịch vụ phù hợp và chính xác
những gìđã cam kết, hứa hẹn.
– Khả năng đáp ứng (responsiness): Là mức độ mong muốn và sẵn sàng phục vụ
khách hàng kịp thời
– Năng lực phục vụ (assurance): Các yếu tố như kiến thức, chuyên môn và phong
cách lịch lãm của nhân viên phụcvụ, khả năng làm cho khách hàng tin tưởng
– Sựthông cảm (empathy): Thể hiện sự quan tâm của nhân viên tới khách hàng.
– Phương tiện hữu hình (tangibility): Chính là sự thể hiện bên ngoài của cơ sở vật
chất,thiết bị, nhân viên và vật liệu, công cụ thông tin.
Theo mô hình SERVQUAL, chất lượng dịch vụ được xác định như sau:
Chất lượng dịch vụ = Mức độ cảm nhận –giá trị kỳ vọng
Thông qua các kiểm tra thực nghiệm, bộ thang đo SERVQUAL đã được nhiều
nhà nghiên cứu cho là khá toàn diện do khả năng bao quát hết các khía cạnh và được
coi công cụ đo lường chất lượng dịch vụ tin cậy và chính xác.
Mô hình SERVQUAL 5 thành phần của parasuraman với những tính năng ưu
việt và đơn giản trong ứng dụng trở nên phổ biến và được ứng dụng rộng rãi trong
thực tế gần như ở mọi loại hình dịch vụ. Ví dụ, sức khỏe (Swartz và Brown, 1989,
Raspollini và cộng sự, 1997); Du lịch (Tribe và S aith, 1998); Dịch vụ thư viện
(Nitecki, 1996; Coleman và cộng sự, 1997); Dịch vụ công ích (Babakus và Boller,
1992); Dịch vụ thông tin (Kettinger và Lee, 1994); Quản lý khoa học (Robinson và
Pidd, 1997); Trong dịch vụ đào tạo, cũng có nhiều nhà nghiên cứu ứng dụng mô hình
SERVQUAL để đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo (Rigotti và Pitt, 1992); giáo dục
chất lượng cao (Ford và cộng sự, 1993;Mcelwee và Redman, 1993).
Tuy nhiên, mô hình này cũng bộc lộ những nhược điểm đó là: thứ nhất, mô hình
này đề cập tới khái niệm “giá trị kỳ vọng”, đây là khái niệm khá mơ hồ. Do vậy, việc
sử dụng thang đo SERVQUAL có thể ảnh hưởng tới chất lượng dữ liệu thu thập, dẫn
đến độ giảm tin cậy và tính không ổn định của các biến quan sát. Thứ hai, mặc dù mô
hình SERVQUAL khẳng định là sử dụng trong mọi lĩnh vực, nhưng trên thực tế thì
các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng không phải lúc nào mô hình này cũng phù hợp,
việc điều chỉnh thang đo SERVQUAL trong nhiều trường hợp là hết sức khó khăn.
Mặt khác, chính vì mô hình này bao quát hết mọi khía cạnh của dịch vụ, nên khi thiết
kế bảng hỏi sẽ khá dài, gây nhàm chán và mất thời gian cho người trả lời. Điều này
cũng ảnh hưởng rất lớn tới kết quả điều tra nghiên cứu.
Sau nhiều nghiên cứu kiểm định cũng như ứng dụng, SERVQUAL được thừa
nhận như một thang đo có giá trị lý thuyết cũng như thực tiễn. Tuy vậy, vẫn còn nhiều
tranh luận, phê phán, đặt vấn đề về thang đo này, nhất là về tính tổng quát và hiệu lực
đo lường chất lượng. Một điều nữa có thể thấy là thủ tục đo lường SERVQUAL khá
dài dòng. Do vậy, đã xuất hiện một biến thể của SERVQUAL là SERVPERF. Thang
đo này xác định chất lượng dịch vụ bằng cách chỉ đo lường chất lượng dịch vụ cảm
nhận ( thay vì đo cả chất lượng cảm nhận lẫn kỳ vọng như SERVQUAL ). Do chất
lượng dịch vụ được phản ánh tốt nhất bởi chất lượng cảm nhận mà không cần có chất
lượngkỳ vọng cũng như đánh giá trọng số của 5 thành phần. Lưuý rằng do có xuất sứ
từ thang đo SERVQUAL, các thành phần và biến quan sát của thang đo SERVPERF
này giữ như SERVQUAL. Mô hình đo lường này được gọi là mô hình cảm nhận
(perception model).
b. Mô hình SERVPERF
Mô hình mức độ cảm nhận (SERVPERF – Service Performance) do Cronin và
Taylor đề xuất năm 1922. Mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ dựa vào mức độ cảm
nhận của khách hàng sau khi đã sử dụng dịch vụ, mức độ cảm nhận cao thì chất lượng
Cronin và Taylor (1992) nghiên cứu các khái niệm, phương pháp đo lường chất
lượng dịch vụ và mối quan hệ với sự hài lòng cũng như việc mua hàng của khách
hàng. Từ đó, đưa ra kết luận rằng yếu tố nhận thức là công cụ dự báo tốt hơn về chất
lượng dịch vụ, đặt ra vấn đề cần nghiên cứu là vai trò của các giá trị trong việc xác
định giá trị của dịch vụ là gì và giá trị ảnhhưởng thế nào đến quyết định mua hàng.
Việc đo lường chất lượng dịch vụ theo mô hình SERVPERF của Cronin và
Taylor được xem là một phương pháp thuận tiện và rõ ràng trong việc đo lường chất
lượng dịch vụ. Cronin và Taylor cho rằng SERVPERF khắc phục được hạn chế của
mô hình SERVQUAL ở chổ khách hàng không cảm thấy khó hiểu về 2 phần giống
nhau của câu hỏi về giá trị kì vọng và cảm nhận. Mô hình này được đánh giá là đơn
giản, dẽ sử dụng hơn SERVQUAL (Kandumpully, 2002; Nadiri & Hussain, 2008;
Soliman & Alzaid, 2002; Cuigham, Young, &Lee, 2002; Phạm & Kulllada, 2009; Jain
& Gupta, 2004). Tuy nhiên lại không chứa đựng thông tin cần thiết cho nhà ra quyết
định vì không biết đặc điểm nào của dịch vụ được khách hàng kỳ vọng cao
(Kandumpully, 2002; Jain & Gupta, 2004). Cronin và Taylor lập luận rằng khung phân
tích theo mô hình SERVQUAL của parasuraman và cộng sự (1985) dễ gây nhầm lẫn
giữa sự hài lòng và thái độ của khách hàng. Các tác giả này cho rằng chất lượng dịch
vụ có thể được định nghĩa “tương tự như một thái độ” và thay vì “kết quả thực hiện
theo như mông đợi”thì “kết quả thực hiện thực tế” sẽ xác định chất lượng dịch vụ tốt
hơn (Phan Chí Anh, Nguyễn Thu Hà, Nguyễn Huệ Minh, 2013).
Theo mô hình SERVPERF thì chất lượng dịch vụ chính là chất lượng mà khách
hàng cảm nhận. Bộ thang đo SERVPERF cũng sử dụng 21 mục phát biểu tương tự như
phần hỏi về cảm nhận của khách hàng trong mô hình SERVQUAL nhưng bỏ qua phần
hỏi về kỳ vọng.
Thang đo SERVPERF đãđược kiểm chứng qua rấtnhiều nghiên cứu. Quester
Romaniuk (1997) đã thực hiện so sánh hai mô hình SERVQUAL VÀ
SERVPERF
trong bối cảnh ngành công nghiệp quảng cáo của Úc. Giả thiết đặt ra là mô hình
SERVQUAL sẽ cho kết quả tốt hơn SERVPERF, nhưng kết quả tìm thấy không ủng
Marcin & Lisa (2002) trong lĩnh vực ngân hàng; Hahm, Chu, Yoon (1997) trong lĩnh
vực truyền thông…
Tại Việt Nam, cũng có nhiều nghiên cứu so sánh về việc nên sử dụng
SERVQUAL hay SERVPERF, đa số các nghiên cứu đều cho rằng nên sử dụng
SERVPERF vì lí do sử dụng mô ình SERVPERF sẽ cho kết quả tốt hơn mô hình
SERVQUAL (Nguyễn Huy Phong và Phạm Ngọc Thúy, 2007). Như vậy, có thể kết
luận rằng, đối với một số sản phẩm dịch vụ với đặc tính khách hàng có niềm tin cao về
chất lượng dịch vụ, thì chất lượng cảm nhận là công cụ duy nhất đem lại sự chính xác
trong đo lường sự thỏa mãn (Churchill & Suprenant, 1982).
c. Mô hình IPA
Mô hình mức độ quan trọng –mức độ thực hiện (IPA –Importance-Performance
Analysis) được đề xuất bởi Martilla và Jame (1977). IPA là mô hình đo lường chất
lượng dịch vụ dựa vào sự khác biệt giữa ý kiến khách hàng về mức độ quan trọng của
các chỉ tiêu và mức độ thực hiện các chỉ tiêu của nhà cung ứng dịch vụ(I-P gaps). Mô
hình này phân loại những thuộc tính đo lường chất lượng dịch vụ, cung cấp cho nhà
cung ứng dịch vụ những thông tin bổ ích về điểm mạnh và điểm yếu của những dịch
vụ mà mình cung cấp cho khách hàng. Từ đó nhà quản trị cung ứng dịch vụ sẽ có
những quyết định chiến lược đúng đắn để nâng cao chất lượng dịch vụ.
Mô hình IPA được phát triển và ứng dụng trong lĩnh vực Marketing vào những
năm 70 của thế kỷ XX. Theo Martilla và James (1977), Keyt và cộng sự (1994), IPA
giúp doanh nghiệp xác định tầm quan trọng của chỉ tiêu dịch vụ cũng như điểm mạnh,
điểm yếu của sản phẩm, dịch vụ cung cấp trên thị trường. Quá trình phát triển IPA
được thực hiện bằng cách so sánh hai tiêu chí hình thành nên quyết định lựa chọn của
khách hàng. Cụ thể,là tầm quan trọng tương đối của các thuộc tính chất lượng và mức
độ thực hiện các thuộc tính chất lượng. Slack (1991) chỉ ra rằng mức độ đạt được kết
quả của sự thực hiện đối với các thuộc tính chất lượng dịch vụ nên được so sánh với