Khái niệm ngôn ngữ học ứng dụng – ngonngu.net
Thuật ngữ “ngôn ngữ học ứng dụng” không có nghĩa biểu thị một sự ứng dụng đơn giản các thành tựu của khoa học về ngôn ngữ vào một lĩnh vực nào đó trong thực tiễn. Ngôn ngữ học ứng dụng là một hoạt động khoa học-thực tiễn đặc biệt có mục đích hoàn thiện các tiếp xúc ngôn ngữ trong xã hội.
Việc ứng dụng ngôn ngữ học có thể mang tính lí thuyết và thực tiễn. Chẳng hạn, trong nhận thức luận và logic học, trong quá trình hình thành lí thuyết dân tộc, trong tâm lí học, sinh vật học và y học, trong sử học và tư liệu học lịch sử v.v… những thành tựu của ngôn ngữ học được sử dụng để giải quyết các vấn đề cụ thể. Trong đó, các kết quả của ngôn ngữ học hoặc là những cứ liệu bổ sung hoặc là những phương tiện chứng minh để giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn thuộc về trách nhiệm của một lĩnh vực khoa học hoặc thực tế (y học, luật học, sư phạm, lịch sử, kĩ thuật truyền thông v.v…).
Ngôn ngữ học ứng dụng, khác với việc ứng dụng ngôn ngữ học, có lí thuyết riêng và lĩnh vực ứng dụng riêng của mình. Ngôn ngữ học ứng dụng, để giải quyết nhiệm vụ của mình, sử dụng phương pháp của những ngành khoa học khác nhau: vật lí học (trong lĩnh vực âm học, lí thuyết dao động điện từ, quang học), tin học, xã hội học, y học, luật học v.v… Là một ngành khoa học ứng dụng, ngôn ngữ học ứng dụng phải giải quyết các nhiệm vụ có tính xây dựng và đưa chúng vào thực tế xã hội. Các kết quả trong lĩnh vực ngôn ngữ học ứng dụng được đánh giá không giống như trong các khoa học cơ bản (sự phù hợp giữa lí thuyết và đối tượng), mà giống như trong kĩ thuật, nghĩa là thông qua sự hiểu biết các tiền lệ và thông qua sự sáng tạo các sản phẩm mới trong lĩnh vực văn hoá (vật chất, vật lí, tinh thần). Ngôn ngữ học cơ bản phục vụ cho việc hình thành chuẩn ngôn ngữ trên cơ sở lí thuyết; ngôn ngữ học ứng dụng dùng chuẩn như cái có sẵn, không bàn luận về nó, và đưa chuẩn ngôn ngữ vào thực tế xã hội ngôn ngữ.
Sự hoàn thiện giao tiếp ngôn ngữ – nhiệm vụ của ngôn ngữ học ứng dụng – có thể được hiện thực hoá trong ba lĩnh vực:
1. Hoàn thiện hình thức và kĩ thuật sản xuất các kí hiệu ngôn ngữ, các phương tiện kĩ thuật để truyền, lưu giữ và thay đổi các kí hiệu ngôn ngữ, các phương tiện thu các tín hiệu ngôn ngữ. Lĩnh vực này của ngôn ngữ học ứng dụng được gọi là kí hiệu học ngôn ngữ.
2. Hoàn thiện giao tiếp bằng ngôn ngữ bằng cách dạy mọi người nắm vững ngôn ngữ được chuẩn hoá, dạy xây dựng các hình thức và kĩ năng chuẩn trong lời nói. Tất cả các phương tiện vật chất-kĩ thuật của ngôn ngữ trong kí hiệu học ngôn ngữ có thể hành chức được, chỉ khi mọi người đều có khả năng sử dụng chúng. Do vậy, việc dạy mọi người hoàn thiện giao tiếp bằng ngôn ngữ được gọi là dạy học ngôn ngữ (hoặc giáo dục ngôn ngữ).
3. Để có thể dạy mọi người về những phương tiện kĩ thuật mới của kí hiệu học ngôn ngữ, cần thiết phải tiến hành việc chức năng hoá các văn bản về mặt xã hội. Muốn làm được việc này cần phải có những quy tắc, theo đó mà sản sinh, truyền bá và lưu giữ văn bản; cần có những cơ quan truyền thông tương ứng kiểm tra hoạt động của các quy tắc. Các cơ quan truyền thông đảm bảo sự phân bổ, lưu giữ, sửa chữa và truyền đạt các văn bản tới những người quan tâm. Hoạt động của các cơ quan truyền thông được gọi là phục vụ thông tin.
Kí hiệu học ngôn ngữ, dạy học ngôn ngữ và phục vụ thông tin làm thành ba khía cạnh của một quá trình thống nhất trong hoàn thiện giao tiếp bằng ngôn ngữ của xã hội. Quá trình này thường bắt đầu bằng những phát minh về kĩ thuật và những khám phá trong kí hiệu học ngôn ngữ. Sự hoàn thiện trong lĩnh vực kí hiệu học kéo theo sự chuyên môn hoá các chức năng xã hội của ngôn ngữ và sự khái quát hoá trong các quy tắc ngôn ngữ.
Bất kì một phát minh kĩ thuật nào cũng làm nảy sinh phương thức sử dụng nó một cách phù hợp. Đó, thứ nhất, là sự xác định ranh giới mà phát minh này có thể phát huy tác dụng có hiệu quả, và, thứ hai, là nhận thức về hệ thống các cơ quan, tổ chức tham gia đảm bảo cho hoạt động đó.
Tương quan giữa kí hiệu học ngôn ngữ, dạy học ngôn ngữ và tin học, có thể được hình dung như sau: 1) việc hoàn thiện liên quan đến hoạt động của tất cả mọi người (toàn bộ dân chúng) – đặc điểm này quyết định tính chất của dạy học ngôn ngữ và kí hiệu học ngôn ngữ; 2) việc hoàn thiện liên quan đến sử dụng một kĩ thuật mới – đặc điểm này quyết định tính chất của kí hiệu học ngôn ngữ và phục vụ thông tin; 3) việc hoàn thiện dẫn đến sự hình thành các quy tắc mới trong sử dụng ngôn ngữ – đặc điểm này quyết định tính chất của dạy học ngôn ngữ và phục vụ thông tin.
Các lĩnh vực kể trên của kí hiệu học, dạy học và phục vụ thông tin là các lĩnh vực thực tiễn của ngôn ngữ. Các lĩnh vực này của thực tiễn là mục tiêu đáp ứng của các khoa học ứng dụng (với tên gọi như vậy). Sự trùng nhau về tên gọi giữa ngành khoa học ứng dụng với các lĩnh vực ứng dụng nó không nên bị hiểu nhầm là sự đánh đồng giữa khoa học với hoạt động thực tiễn. Hoạt động khoa học là hoạt động nhận thức, còn hoạt động thực tiễn là hoạt động tạo ra những đối tượng mới, hoàn thiện những cái đang có, và không ít khi kèm theo sự loại bỏ những cái đã lỗi thời. Hoạt động nhận thức, về nguyên tắc, có mối quan hệ với những lĩnh vực khoa học giáp ranh khác với hoạt động thực tiễn – một hoạt động sản sinh. Bên cạnh đó, nó không phải là ngẫu nhiên, bởi lẽ mối quan hệ giữa hai lĩnh vực này rất chặt chẽ.
Ngôn ngữ học ứng dụng là cơ sở, để từ đó phát triển ra các lĩnh vực khác của ngôn ngữ học. Phát minh ra chữ viết, sáng tạo văn học và văn bản dẫn đến sự ra đời của trường học. Các nhà ghi sử của Ai Cập cổ được đào tạo như các nhà ngôn ngữ học ứng dụng. Họ biết viết trên các chất liệu khác nhau, bằng những phương tiện khác nhau, làm nhiều công việc hành chính khác nhau, giảng dạy trong nhà trường, tham gia hoạt động quản lí và phục vụ cho khoa học, tư tưởng của Ai Cập cổ. Các nhà ngôn ngữ học ứng dụng hiện đại, về thực chất, cũng hoạt động trong những lĩnh vực như vậy, nhưng họ giải quyết những vấn đề phức tạp hơn.
* Yu.V. Rozhdestvenskij. Những bài giảng ngôn ngữ học đại cương. Nxb Giáo dục, H., 1997, trang 319–322.