Khái niệm, mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính?
Kiểm toán là quá trình thu thập và đánh giá các bằng chứng về một thông tin nhằm xác định và báo cáo về sự phù hợp của thông tin này với các tiêu chuẩn được thiết lập. Quá trình kiểm toán phải được thực hiện bởi các kiểm toán viên có đủ năng lực và độc lập…..
Mục Lục
1. Khái niệm, mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán
1.1 Khái niệm
Kiểm toán là quá trình thu thập và đánh giá các bằng chứng về một thông tin nhằm xác định và báo cáo về sự phù hợp của thông tin này với các tiêu chuẩn được thiết lập. Quá trình kiểm toán phải được thực hiện bởi các KTV có đủ năng lực và độc lập”. (Arens et al., 2012).
Kiểm toán BCTC là việc KTV hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến về tính trung thực, hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu của BCTC của đơn vị được kiểm toán theo quy định của chuẩn mực kiểm toán.
1.2 Mục đích
Theo ISA 200, việc kiểm toán BCTC nhằm mục đích là tăng độ tin cậy của người sử dụng đối với BCTC. Điều này đạt được thông qua việc các KTV đưa ra ý kiến về việc liệu BCTC có được lập và trình bày trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày BCTC được áp dụng hay không.
Từ đây có thể thấy rằng báo cáo kiểm toán là phương tiện truyền thông giữa KTV và người sử dụng BCTC. Nó đại diện cho khía cạnh quan trọng nhất của quy trình kiểm toán và KTV sử dụng báo cáo này để chuyển tải kết quả của quá trình kiểm toán đến những người sử dụng BCTC.
Theo Arens et al. (2006), nhu cầu về dịch vụ kiểm toán xuất phát từ nhiều yếu tố như khoảng cách xa giữa người sử dụng BCTC và người chuẩn bị các báo cáo này, xung đột lợi ích giữa những người sử dụng BCTC, sự phức tạp của các giao dịch kinh tế và những ảnh hưởng kỳ vọng của BCTC đối với việc ra quyết định.
Tuy nhiên, báo cáo kiểm toán – cụ thể là ý kiến kiểm toán thực sự có ý nghĩa hay không với các nhà đầu tư vẫn là một vấn đề còn chưa thống nhất. Estes và Reimer (1977), Houghton (1983), Robertson (1988) và Lin et al. (2003) cho rằng báo cáo kiểm toán không gây ra ảnh hưởng đáng kể trong các phân tích của họ. Tuy nhiên, Firth (1980), Gul (1987), Bessell et al. (2003) và Guillamon (2003) cho lại cho rằng báo cáo kiểm toán là một nguồn thông tin hữu ích cho các bên tham gia trong thị trường, và các loại ý kiến không phải chấp nhận toàn phần ảnh hưởng đến giá cổ phiếu và quyết định đầu tư.
2. Các loại ý kiến kiểm toán báo cáo tài chính
2.1 Khái quát
Ngày 06/12/2012, Bộ Tài Chính ra Thông tư 214/2012/TT-BTC ban hành hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, gồm 37 chuẩn mực kiểm toán mới, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014 nhằm hướng đến hài hòa và hội tụ với quốc tế trong lĩnh vực kế toán và kiểm toán. Theo đó, một số chuẩn mực cũ liên quan đến báo cáo kiểm toán và ý kiến kiểm toán đã được thay mới.
Để đạt được số lượng mẫu cần thiết cho nghiên cứu, bài viết sử dụng dữ liệu trong khoảng thời gian từ 2012 đến 2016, do đó một số báo cáo kiểm toán trong mẫu nghiên cứu được trình bày theo hệ thống chuẩn mực trước. Vì vậy, tác giả sẽ tóm tắt các nội dung liên quan đến cả hai hệ thống chuẩn mực và tiến hành so sánh.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cũ (Ban hành và công bố theo Quyết định 120/1999/QĐ-BTC ngày 27 tháng 09 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và đã hết hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014)
Trong đoạn 34, chuẩn mực VSA 700 của hệ thống chuẩn mực này, căn cứ vào kết quả thực hiện kiểm toán, KTV có thể đưa ra một trong các loại ý kiến đối với BCTC của đơn vị được kiểm toán, như sau: Ý kiến chấp nhận toàn phần: Báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp nhận toàn phần được đưa ra trong trường hợp KTV và công ty kiểm toán cho rằng BCTC phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, và phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc được chấp nhận). Ý kiến chấp nhận toàn phần cũng mang hàm ý rằng tất cả các thay đổi về nguyên tắc kế toán và các tác động của chúng đã được xem xét, đánh giá một cách đầy đủ và đã được đơn vị nêu rõ trong phần thuyết minh BCTC.
2.2 Một số ý kiến chủ yếu
Ý kiến chấp nhận từng phần: Báo cáo kiểm toán loại này được đưa ra trong trường hợp KTV và công ty kiểm toán cho rằng BCTC chỉ phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị, nếu không bị ảnh hưởng bởi yếu tố tuỳ thuộc (hoặc ngoại trừ) mà KTV đã nêu ra trong báo cáo kiểm toán. Điều này cũng có nghĩa nếu vấn đề này ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC thì BCTC đó đã không phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu.
Yếu tố tuỳ thuộc trong báo cáo do KTV nêu ra thường liên quan đến các sự kiện có thể xảy ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và KTV. Việc đưa ra yếu tố tuỳ thuộc cho phép các KTV hoàn thành trách nhiệm kiểm toán của mình nhưng cũng làm cho người sử dụng BCTC phải lưu ý và tiếp tục theo dõi khi sự kiện có thể xảy ra.
Ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược)
Báo cáo với ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược) được đưa ra trong trường hợp các vấn đề không thống nhất với Giám đốc là quan trọng hoặc liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục đến mức độ mà KTV cho rằng ý kiến chấp nhận từng phần là chưa đủ để thể hiện tính chất và mức độ sai sót trọng yếu của BCTC.
Ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến)
Loại ý kiến kiểm toán từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến) được đưa ra khi hậu quả của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng hoặc thiếu thông tin liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục tới mức mà KTV không thể thu thập đầy đủ và thích hợp các bằng chứng kiểm toán để có thể cho ý kiến về BCTC.
Trong hệ thống 37 chuẩn mực kiểm toán mới, có hiệu lực từ 01/01/2014 có ba chuẩn mực quy định về báo cáo kiểm toán và ý kiến kiểm toán: VSA 700: Hình thành ý kiến kiểm toán và báo cáo kiểm toán về BCTC; VSA 705: Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần; VSA 706: Đoạn “Vấn đề cần nhấn mạnh” và “Vấn đề khác” trong báo cáo kiểm toán về BCTC.
Theo hệ thống chuẩn mực mới này, ý kiến kiểm toán được phân loại như sau: Ý kiến chấp nhận toàn phần
KTV đưa ra ý kiến dạng này khi kết luận rằng BCTC đã được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày BCTC được áp dụng. Ý kiến này hàm ý rằng:
– KTV đã thu thập đầy đủ bằng chứng thích hợp về BCTC;
– Mọi thay đổi về chính sách kế toán và các tác động của chúng đã được xem xét, đánh giá đầy đủ và đã được công bố trong thuyết minh BCTC;
– Không có nghi ngờ đáng kể về giả định hoạt động liên tục của đơn vị.
Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần
Theo VSA 705 “Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần”, KTV không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần trong trường hợp:
– BCTC, xét trên phương diện tổng thể, vẫn còn sai sót trọng yếu;
– Không thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để đưa ra kết luận rằng BCTC, xét trên phương diện tổng thể, không còn sai sót trọng yếu.
– Ý kiến này gồm các loại ý kiến:
Ý kiến kiểm toán ngoại trừ: Dạng ý kiến này được trình bày khi KTV cho rằng BCTC chỉ phản ánh trung thực và hợp lý nếu không bị ảnh hưởng bởi yếu tố ngoại trừ khi BCTC. Cụ thể KTV đưa ra dạng ý kiến này khi:Các sai sót, xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với BCTC, hoặc Không thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán để là cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán, nhưng các ảnh hưởng của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có) có thể là trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với BCTC.
Ý kiến kiểm toán trái ngược: Đây là trường hợp ngược lại của ý kiến chấp nhận toàn phần. KTV đưa ra ý kiến này khi các sai sót, xét riêng rẻ hay tổng hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu và lan tỏa đối với BCTC. KTV phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở cho ý kiến. Đây là trường hợp mà các sai sót là quan trọng hoặc liên quan đến đa số khoản mục và làm cho tổng thể của BCTC bị sai sót trọng yếu đến mức phản ứng không trung thực và hợp lý về tình hình tài chính hoặc kết quả hoạt động của đơn vị. Lúc này, vì tính nghiêm trọng của vấn đề nên ý kiểm kiểm toán ngoại trừ là không thể áp dụng.
Từ chối đưa ra ý kiến: KTV đưa ra ý kiến này khi không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán và những ảnh hưởng có thể của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có) có thể là trọng yếu và lan tỏa đối với BCTC. Nói cách khác, hậu quả của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng và các thông tin bị thiếu liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục đến mức mà KTV không thể thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp để có thể cho ý kiến về BCTC.
Ý kiến kiểm toán có đoạn giải thích về “Vấn đề cần nhấn mạnh” hoặc “vấn đề khác”
Theo chuẩn mực VSA 706, KTV sẽ thêm một đoạn với tiêu đề riêng “Vấn đề nhấn mạnh” ngay sau “Ý kiến kiểm toán” khi:
– Muốn thu hút sự chú ý của người sử dụng đối với một vấn đề đã được trình bày hoặc đã thuyết minh trong BCTC, và
– Vấn đề đó đặc biệt quan trọng để người sử dụng hiểu được BCTC, và
– Vấn đề đó không bị sai sót trọng yếu trong BCTC.
Những tình huống cần sử dụng đoạn “Vấn đề cần nhấn mạnh” để thu hút sự chú ý của người sử dụng BCTC có thể là:
– Khuôn khổ về lập và trình bày BCTC theo yêu cầu của pháp luật và các quy định là không thể chấp nhận được nhưng đơn vị đó vẫn phải áp dụng vì đó là yêu cầu bắt buộc của pháp luật và các quy định;
– Có sự tồn tại của yếu tố không chắc chắn liên quan đến sự kiện hoặc điều kiện có thể dẫn đến nghi ngờ đáng kể khả năng hoạt động liên tục của đơn vị được kiểm toán (giả định này là phù hợp và đã được thuyết minh đầy đủ trong BCTC của đơn vị được kiểm toán);
– BCTC được lập theo khuôn khổ về lập và trình bày BCTC cho mục đích đặc biệt và do đó, BCTC này có thể không phù hợp cho mục đích khác;
– BCTC kỳ trước có sai sót nhưng chưa được sửa chữa và chưa phát hành lại BCKT, nhưng thông tin so sánh là dữ liệu tương ứng đã được trình bày lại một cách hợp lý hoặc đã có các thuyết minh phù hợp trong BCTC kỳ hiện hành.
KTV có thể thêm đoạn với tiêu đề riêng “Vấn đề khác” ngay sau đoạn “Ý kiến của KTV” và sau đoạn “Vấn đề cần nhấn mạnh” khi:
– Nhận thấy cần phải trao đổi về một vấn đề khác ngoài vấn đề đã được trình bày và thuyết minh trên BCTC;
– Vấn đề đó là thích hợp để người sử dụng hiểu rõ hơn về cuộc kiểm toán và trách nhiệm của KTV hoặc về BCKT, đồng thời pháp luật và các quy định của không cấm việc này.
So sánh hai hệ thống chuẩn mực về phương diện ý kiến kiểm toán: Về phương diện ý kiến kiểm toán, hai hệ thống chuẩn mực này có một số khác biệt cơ bản sau:
– Hệ thống 37 chuẩn mực mới sử dụng thuật ngữ ý kiến kiểm toán không phải ý kiến chấp nhận toàn phần, với ý nghĩa bao gồm ý kiến ngoại trừ, ý kiến không chấp nhận và ý kiến từ chối đưa ra ý kiến. Như vậy, theo như chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành, ý kiến kiểm toán được phân thành hai loại chính là ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần và ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần.
– Khi BCTC xuất hiện yếu tố trọng yếu nhưng không chắc chắn liên quan đến sự kiện có thể xảy ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và KTV thì khi đó KTV đưa ra ý kiến có đoạn nhấn mạnh thay vì ý kiến chấp nhận từng phần tùy thuộc vào như chuẩn mực cũ. Như vậy, chuẩn mực kiểm toán hiện hành đã loại bỏ ý kiến chấp nhận từng phần dạng tùy thuộc vào so với chuẩn mực cũ.
Trong phần nội dung của luận văn, tác giả sử dụng 2 dạng ý là ý kiến kiểm toán ngoại trừ, hay ý kiến chấp nhận từng phần theo chuẩn mực cũ và ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn vấn đề cần nhấn mạnh liên quan đến sự không chắc chắn về khả năng hoạt động liên tục hoặc khủng hoảng tài chính. Ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn vấn đề cần nhấn mạnh được bao gồm trong mẫu nghiên cứu, mang ý nghĩa là một dạng ý kiến điều chỉnh, tách biệt với ý kiến chấp nhận toàn phần. Việc sử dụng dạng ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn vấn đề cần nhấn mạnh liên quan đến sự không chắc chắn về khả năng hoạt động liên tục hoặc khủng hoảng tài chính là sự kế thừa từ các nghiên cứu trước như Chel et al., (2000), Bessel et al. (2003) Giuseppe Ianniello và Giuseppe Galloppo (2015).
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật thuế – Công ty luật Minh Khuê