Giảm nghèo bền vững là gì? Quan Niệm và Vai Trò

Rate this post

Cơ sở lý luận về giảm nghèo bền vững tại nước ta là gì? Có những quan niệm và vai trò chung nào về giảm nghèo bền vững ở nước ta? Nhằm hỗ trợ các bạn học viên đang làm luận văn thạc sĩ về xóa đói giảm nghèo được thuận lợi hơn trong việc tìm kiếm tài liệu, Luận văn Panda đã tổng hợp được các nguồn tư liệu chính thống và tổng hợp lại cho các bạn học viên cùng nhau tham khảo.

Ngoài ra, còn rất nhiều luận văn thạc sĩ về giảm nghèo bền vững, cũng như những khái niệm, đặc điểm vai trò của luận văn thạc sĩ. Nếu như các bạn có nhu cầu tham khảo thêm nhiều bài mẫu khác thì có thể tham khảo tại đây nhé.

====>>>> Luận văn thạc sĩ giảm nghèo bền vững

1. Quan niệm chung về giảm nghèo bền vững:

Cho đến nay, chưa có một quan niệm thống nhất về giảm nghèo bền vững. Tuy nhiên, vấn đề giảm nghèo luôn được đề cập khi nói đến phát triển bền vững và giảm nghèo bền vững là nhân tố quan trọng tạo nên sự phát triển bền vững. Ngược lại, khi kinh tế phát triển bền vững lại tạo điều kiện để giảm nghèo bền vững.

Giảm nghèo bền vững có thể được hiểu là quá trình thực hiện cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người nghèo hướng tới nâng cao năng lực tự thoát nghèo và không rơi trở lại trạng thái nghèo của người dân.

Về nguyên tắc, giải quyết vấn đề nghèo nói chung cần đảm bảo trên cả 2 phương diện số lượng và chất lượng.

Về số lượng, giảm nghèo sẽ là số tuyệt đối hộ nghèo giảm được trong một khoảng thời gian nhất định, cần phân biệt giữa số hộ nghèo giảm với số hộ thoát nghèo, hai khái niệm này chỉ đồng nhất với nhau khi không có các yếu tố khác tác động đến như di chuyển dân cư, tái nghèo…

Về chất lượng giảm nghèo là khái niệm để chỉ thực chất của kết quả giảm nghèo, mà vấn đề cần đạt được là đời sống người nghèo được nâng lên sau khi có tác động hỗ trợ, khoảng cách thu nhập với các nhóm dân cư khác được rút ngắn về mặt tốc độ, khi gặp rủi ro hay bất trắc sẽ không bị rơi vào tình trạng nghèo đói, hay nói cách khác, chất lượng giảm nghèo suy cho cùng là phản ánh tính bền vững của quá trình giảm nghèo.

Giảm nghèo bền vững ngoài việc bảo đảm hoàn thành các mục tiêu giảm nghèo đã định trong từng giai đoạn, từng thời kỳ. Cần hướng đến việc khắc phục một cách có hiệu quả nhất những bất cập, hạn chế trong giảm nghèo để tránh tình trạng tái nghèo, cải thiện ở mức tốt nhất thu nhập và điều kiện sống của người nghèo. Từng bước giúp họ có thể tự vươn lên một cách vững vàng thông qua việc họ có các điều kiện và cơ hội khai thác các nguồn lực xã hội cơ bản để phát triển. Đồng thời, hướng tới việc nắm bắt các xu hướng tác động đến chất lượng giảm nghèo để có cách thức bảo đảm tính bền vững cho thành quả giảm nghèo.

Từ nhận thức nêu trên, có thể cụ thể hoá quan niệm giảm nghèo bền vững trên các khía cạnh sau:

Thu nhập bình quân đầu người của các hộ nghèo tăng, tỷ lệ hộ nghèo giảm theo từng năm, từng giai đoạn.

Điều kiện sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt, trước hết là các điều kiện sống cơ bản về y tế, giáo dục, văn hoá, nước sinh hoạt, nhà ở, và người nghèo cũng được tiếp cận ngày càng thuận lợi hơn các dịch vụ xã hội cơ bản.

Người nghèo có được nhiều hơn các cơ hội để vươn lên tự thoát nghèo và phát triển thông qua hệ thống các chủ trương, chính sách giảm nghèo đồng bộ và có tính khả thi của Đảng và Nhà nước.

Giảm nghèo bền vững là việc tạo điều kiện cho người nghèo có khả năng tiếp cận với 5 nội dung cơ bản đó là: y tế, giáo dục, điều kiện sống, việc làm và tiếp cận thông tin. Chỉ có thể giảm nghèo một cách bền vững khi chúng ta giải quyết được vấn đề trên, giúp cho người nghèo có nhiều cơ hội được tiếp cận với văn hóa, xã hội, thông tin và nâng cao đời sống vật chất.

Giảm nghèo và giảm nghèo bền vững là một trong những nội dung của quá trình phát triển bền vững. Bởi vậy, giảm nghèo bền vững thực sự cần thiết và có ảnh hưởng nhiều mặt đối với sự phát triển KINH TẾ – XÃ HỘI. Có thể khái quát sự cần thiết của giảm nghèo bền vững trong quá trình phát triển KINH TẾ – XÃ HỘI trên các phương diện như: đóng góp của giảm nghèo bền vững với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội; với ổn định chính trị, phát triển xã hội, là điều kiện cho phát triển kinh tế.

2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về giảm nghèo bền vững:

Giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước: Có thể khẳng định rằng, chiến lược toàn diện về tăng trưởng, xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam là đúng đắn, hợp lòng dân, phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Mặc dù kinh tế đất nước còn khó khăn nhưng Đảng, Nhà nước luôn coi công tác giảm nghèo là một trong những mục tiêu quan trọng.

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước không ngừng bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách về xóa đói giảm nghè . Nhiều nghị quyết, chỉ thị, chiến lược, quyết định, chính sách quan trọng về công tác xóa đói giảm nghèo đã được ban hành để phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước. Các chương trình, chính sách giảm nghèo đã huy động sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội (các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội) và sự vươn lên của chính người nghèo…, tạo nguồn lực to lớn cùng với nguồn lực của Nhà nước thực hiện hiệu quả công tác có ý nghĩa xã hội sâu sắc này. Kết quả tích cực của công cuộc Xóa đói giảm nghèo đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, an sinh xã hội cho người dân vùng đặc biệt khó khăn. Do vậy, quan điểm nhất quán là cần phải huy động vai trò của cả hệ thống chính trị và xã hội trong thực hiện chính sách này.

Giảm nghèo bền vững là yêu cầu cấp thiết để phát triển bền vững. Bước sang thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới, xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp để chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế làm cho thu nhập, đời sống của đại đa số nhân dân từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, do điểm xuất phát của nền kinh tế thấp, lại chịu hậu quả lớn của chiến tranh và thiên tai, dịch bệnh, kèm theo tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường, nên sự phân hoá thu nhập, đời sống giữa các vùng ngày càng tăng nhanh. Trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển, bộ phận dân nghèo kể cả những gia đình có công với cách mạng, chịu nhiều thiệt thòi. Vì vậy, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu, nghèo và trợ giúp người nghèo đã trở thành nhu cầu bức thiết, và là một trong những biểu hiện bản chất xã hội chủ nghĩa.

Thực thi chính sách giảm nghèo phải hướng đến giảm nghèo bền vững: Giảm nghèo bền vững được hiểu là kết quả những nỗ lực của Nhà nước cộng đồng và người dân về giảm nghèo có khả năng chịu được những rủi ro thông thường. Nghị quyết Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định:

Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức xoá đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để xoá đói, giảm nghèo bền vững; tạo điều kiện và khuyến khích người đã thoát nghèo vươn lên làm giàu và giúp đỡ người khác thoát nghèo [15, tr.224].

Để cụ thể hóa hơn định hướng của Đảng, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu cần đạt được trong giảm nghèo từ 2011 đến 2020, đặc biệt là Nghị quyết số 80/NQ-CP về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020 đã xác định:

Giảm nghèo bền vững là một trong những trọng tâm của Chiến lược phát triển KINH TẾ – XÃ HỘI giai đoạn 2011 – 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư [11, tr.2].

Nhằm thực hiện được các mục tiêu trên, trong giai đoạn 2011 – 2020 cần quán triệt quan điểm giảm nghèo bền vững của Đảng trong việc thực hiện những chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo: Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 3, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ và các chương trình phát triển KINH TẾ – XÃ HỘI khác. Nguồn lực để thực hiện công tác giảm nghèo sẽ được huy động tối đa, không chỉ bằng ngân sách nhà nước mà cần huy động sự tham gia với tinh thần trách nhiệm cao của cộng đồng xã hội và đặc biệt là từ chính bản thân người nghèo. Phối hợp nhiều phương thức hỗ trợ người nghèo như hỗ trợ người nghèo trong vay vốn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ về nhà ở, hỗ trợ về cung cấp và tạo điều kiện duy trì với các loại dịch vụ, hỗ trợ giao đất, giao rừng; về đào tạo nguồn nhân lực…

Đồng thời khắc phục những hạn chế như: Các chương trình giảm nghèo triển khai chưa toàn diện, nhiều chính sách, chương trình giảm nghèo được ban hành nhưng còn mang tính ngắn hạn, chồng chéo, nguồn lực cho giảm nghèo chưa đáp ứng yêu cầu, lại bị phân tán, dàn trải, thiếu giải pháp cụ thể gắn kết việc thực hiện chính sách giảm nghèo với chính sách an sinh xã hội, việc phối hợp chỉ đạo thực hiện giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ, hiệu quả. Với những quan điểm đồng bộ như vậy, sẽ đảm bảo tính khả thi trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững của của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 2011 – 2020.

Trên thực tế, mặc dù đã được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ nhưng công tác giảm nghèo, đặc biệt là xóa đói giảm nghèo  cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa vẫn còn nhiều hạn chế, chưa bền vững. Để giảm nghèo bền vững cần đảm bảo những yếu tố sau:

  • Thứ nhất là “năng lực”, bao gồm năng lực của người dân, năng lực cộng đồng và năng lực của chính quyền. Trong thực tế, có những quốc gia, địa phương có được kết quả giảm nghèo ấn tượng (giảm nghèo nhanh) nhưng do chỉ dựa vào nguồn trợ giúp nên khi nguồn trợ giúp không còn thì người dân trở lại với nghèo đói. Ngược lại, khi năng lực của người dân, năng lực cộng đồng năng lực chính quyền tốt thì người dân có thể chủ động vươn lên thoát nghèo bằng chính nỗ lực của họ cùng với năng lực hỗ trợ của chính quyền, đồng thời trong một cộng đồng tốt thì hiệu quả của những đối phó rủi ro cũng cao hơn. Điều này sẽ tạo điều kiện cho việc giảm nghèo bền vững.
  • Thứ hai là cơ hội phát triển. Nếu thiếu cơ hội để phát triển thì không sử dụng được năng lực để giảm nghèo. Cơ hội phát triển luôn là vô tận và ngày càng phong phú, tuy nhiên người nghèo không dễ để có thể tiếp cận và khai thác các cơ hội bởi những bất lợi so với những nhóm giàu hay khá giả hơn. Trên thực tế, nhiều cơ hội còn xa với người nghèo do thiếu các kênh để người nghèo tiếp cận. Do đó, cần tăng tính mở của các cơ hội cho người nghèo thông qua độ mở các kênh tiếp cận.
  • Thứ ba là an toàn. Nếu như cùng với sự nỗ lực để giảm nghèo là những biện pháp chủ động phòng ngừa, giảm nhẹ và khắc phục rủi ro thì khi đó tính bền vững sẽ cao. Tính an toàn gắn với khả năng chống chịu rủi ro. Chủ động phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro chính là nền tảng của giảm nghèo bền vững. Thước đo đánh giá giảm nghèo bền vững về góc độ tính an toàn là xem xét mức độ và cách thức người dân, cộng đồng và chính quyền địa phương dự phòng, giải quyết vấn đề rủi ro.
  • Thứ tư là dịch vụ công (dịch vụ xã hội cơ bản) bao gồm cả việc cung cấp dịch vụ của cơ quan chức năng cũng như khả năng tiếp cận của người dân đến dịch vụ công. Nếu dịch vụ công tốt sẽ mang lại cho người dân nhiều lợi ích thiết thực qua đó sẽ là điều kiện quan trọng bảo đảm cho giảm nghèo nhanh và bền vững. Dịch vụ công được đánh giá thông qua các tiêu chí như: tính minh bạch, rõ ràng, tính linh hoạt, số lượng dịch vụ cung ứng, chất lượng dịch vụ, tính hiệu quả và tính kịp thời của dịch vụ…

Đây là bốn yếu tố quan trọng để thông qua đó đánh giá được giảm nghèo có bền vững hay không. Trong thực hiện chính sách giảm nghèo cần quán triệt quan điểm này để kết quả giảm nghèo đạt được kết quả bền vững.

Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay: Xóa đói giảm nghèo là chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, miền và giữa các dân tộc, nhóm dân cư.

Để thực hiện có hiệu quả công tác Xóa đói giảm nghèo, Chính phủ đã đưa ra nhiều chương trình nhằm giảm nghèo nhanh và bền vừng như: Chương trình hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn (Chương trình 134), Chương trình phát triển KINH TẾ – XÃ HỘI các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số miền núi, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135), Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ, Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững…

Trong những năm qua, kết quả Xóa đói giảm nghèo trong cả nước đã góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững và thực hiện công bằng xã hội, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

Để hỗ trợ các bạn học viên dễ dàng hơn trong việc tham khảo giá viết thuê luận văn thạc sĩ, và quy trình viết thuê luận văn thạc sĩ. Các bạn có thể tham khảo bảng giá viết thuê luận văn thạc sĩ tại đây.

====>>> BẢNG GIÁ VIẾT THUÊ LUẬN VĂN THẠC SĨ

3. Vai trò của giảm nghèo bền vững đối với sự phát triển kinh tế – xã hội:

Giảm nghèo và giảm nghèo bền vững là một trong những nội dung của quá trình phát triển bền vững. Bởi vậy, giảm nghèo bền vững thực sự cần thiết và có ảnh hưởng nhiều mặt đối với sự phát triển KINH TẾ – XÃ HỘI. Có thể khái quát sự cần thiết của giảm nghèo bền vững trong quá trình phát triển trên các phương diện như: đóng góp của giảm nghèo bền vững với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội; với ổn định chính trị, phát triển xã hội, là điều kiện cho phát triển kinh tế nước ta, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến công tác giảm nghèo và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển KINH TẾ – XÃ HỘI, là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt, bởi vì sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới luôn luôn đặt ra nhiệm vụ: Mỗi bước phát triển KINH TẾ – XÃ HỘI là một bước cải thiện đời sống của nhân dân; chính vì thế đây không chỉ là việc thực hiện đạo lý “Thương người như thể thương thân” mà còn là nhiệm vụ để bảo đảm ổn định xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thoát nghèo. Giảm nghèo bền vững không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định cho phát triển.

Nghèo là một quá trình liên quan toàn bộ các mối quan hệ kinh tế, xã hội, nếu không giải quyết vấn đề này sẽ nảy sinh các hiện tượng gây mất ổn định xã hội ảnh hưởng xấu tới chính trị. Phân hoá giàu nghèo đến một mức độ nào đó, sẽ trở thành phân hoá giai cấp, xung đột xã hội nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, nếu không ổn định chính trị xã hội thì xã hội trở nên rối loạn, khủng hoảng. Do đó mọi kế hoạch phát triển kinh tế bị phá vỡ. Mặt khác, bản thân hiện tượng nghèo đã bao hàm nội dung kinh tế. Vì vậy giảm nghèo bền vững nhằm ổn định, phát triển KINH TẾ – XÃ HỘI.

Giảm nghèo bền vững là điều kiện đảm bảo ổn định chính trị, an ninh quốc phòng. Thực tiễn phát triển của các quốc gia đều chứng tỏ rằng, nhờ kinh tế tăng trưởng cao mà có sức mạnh vật chất để hình thành và triển khai các chương trình hỗ trợ vật chất, tài chính và đầu tư cho các đối tượng xã hội khác nhau, đặc biệt có những hỗ trợ thiết thực cho những đối tượng nghèo, yếu thế trong xã hội và có những đầu tư cần thiết tạo tiền đề phát triển cho những vùng nghèo, vùng khó khăn. Người nghèo và cộng đồng nghèo nhờ đó có cơ hội vươn lên thoát nghèo.

Tăng trưởng kinh tế là điều kiện quan trọng để giảm nghèo bền vững trên quy mô rộng; không có tăng trưởng mà chỉ thực hiện các chương trình tái phân phối hoặc các biện pháp giảm nghèo truyền thống thì tác dụng không lớn và giảm nghèo chỉ là hành động xử lý tình thế không mang tính lâu dài, bền vững.

Tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất, nội lực để giảm nghèo bền vững. Giảm nghèo bền vững là mục tiêu, động lực của phát triển KINH TẾ – XÃ HỘI, là tiền đề cơ bản bảo đảm cho sự ổn định chính trị xã hội để phát triển kinh tế. Nước ta kinh tế còn chậm phát triển, nguồn lực của Nhà nước, của cộng đồng còn hạn chế, cho nên bản thân người nghèo càng hết sức khó khăn. Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế tăng trưởng bước đầu đã tạo việc làm, nguồn vốn và cơ hội vươn lên cho người nghèo. Với phương châm chỉ đạo và những hành động cụ thể, trong những năm qua mục tiêu giảm nghèo đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.