Đổi mới sáng tạo và các đặc tính của nó
Đổi mới sáng tạo và các đặc tính của nó
Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tỉnh Bến Tre phối hợp với các Sở, ngành có liên quan đang tiến hành tổng hợp, chấm thi và chuẩn bị công bố kết quả Cuộc thi đổi mới sáng tạo (ĐMST) trong doanh nghiệp (DN) tỉnh Bến Tre năm 2022 và để phát huy được các thuộc tính của ĐMST, DN cần nhận diện về nó.
Định nghĩa
Thuật ngữ ĐMST được đề cập đến khá phổ biến trong hơn thập niên vừa qua. Theo đó, ĐMST được hiểu là việc tạo ra và sử dụng tri thức mới phù hợp về công nghệ, về quản lý, về thị trường mới làm tăng giá trị cho sản phẩm hoặc dịch vụ.
Các tổ chức quốc tế đều có những định nghĩa khá tương đồng về ĐMST. Theo EC (1995), ĐMST là “sản xuất thành công, đồng hóa và khai thác tính mới trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội”. ĐMST là sự đổi mới và mở rộng phạm vi của các sản phẩm và dịch vụ thị trường liên quan; thiết lập các phương thức sản xuất, cung ứng và phân phối mới và giới thiệu các thay đổi trong quản lý, tổ chức công việc; các điều kiện và kỹ năng làm việc của lực lượng lao động.
Theo chuẩn của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế đưa ra định nghĩa về đổi mới sáng tạo trong Cẩm nang Oslo 2005 (OECD, 2005): “ĐMST là việc thực thi một sản phẩm (hàng hóa/ dịch vụ) hoặc một quy trình mới hoặc được cải tiến đáng kể, một phương pháp marketing mới, hay một biện pháp mới mang tính tổ chức trong thực tiễn hoạt động, trong tổ chức công việc hay trong quan hệ với bên ngoài”.
Các định nghĩa trong Cẩm nang Oslo 2005 được bổ sung, phát triển từ Cẩm nang Oslo 1997. Trong đó, đổi mới sản phẩm và đổi mới quy trình trong Cẩm nang Oslo 2005 tương tự như định nghĩa trong Cẩm nang Oslo 1997, được gọi chung là đổi mới công nghệ.
Theo Điểm 16 Điều 13 Luật KH&CN Luật số: 29/2013/QH13, ngày 18/6/2013 đã chỉ rõ: “ĐMST là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa”.
Nhìn chung, các khái niệm đều cho thấy, ĐMST liên quan đến sự thay đổi và tính mới. Tính mới này có thể là mới đối với công ty (sự đổi mới có thể đã được thực hiện bởi các công ty khác nhưng nó là mới đối với công ty), mới đối với thị trường (khi DN là người đầu tiên giới thiệu sự đổi mới trên thị trường của mình) và mới đối với thế giới (khi DN là người đầu tiên giới thiệu sự đổi mới cho tất cả tất cả các thị trường và các ngành công nghiệp) (OECD, 2010). Bên cạnh đó, ĐMST có thể mang cả khía cạnh công nghệ và phi công nghệ (mô hình kinh doanh, marketing,…).
Phân loại ĐMST
Theo loại hình ĐMST
Trong hướng dẫn OECD Oslo Manual (2005) ĐMST được phân loại thành 4 loại hình: ĐMST sản phẩm, quy trình hoạt động, hệ thống quản lý và ĐMST về các hoạt động marketing.
ĐMST là việc giới thiệu một sản phẩm mới hoặc được cải tiến đáng kể đối với các đặc tính hoặc mục đích sử dụng của nó. Điều này bao gồm những cải tiến đáng kể trong các chi tiết kỹ thuật, các thành phần và nguyên liệu, phần mềm tích hợp, tính thân thiện với người sử dụng hoặc các đặc tính chức năng khác.
Đổi mới quy trình là việc thực hiện phương pháp sản xuất hoặc phương thức phân phối mới hoặc được cải tiến đáng kể. Điều này bao gồm những thay đổi đáng kể về kỹ thuật, thiết bị hoặc phần mềm.
Đổi mới tổ chức bao gồm việc thực hiện một phương pháp tổ chức mới trong thực tiễn kinh doanh của DN, cơ cấu lại tổ chức hoặc quan hệ với bên ngoài.
Đổi mới marketing là việc thực hiện một phương pháp marketing mới liên quan đến sự thay đổi đáng kể trong thiết kế sản phẩm hoặc bao bì, nơi bán sản phẩm, quảng bá sản phẩm hoặc giá cả của sản phẩm.
Phân loại theo cấp độ ĐMST
Phân theo cấp độ, người ta chia ra làm 02 cấp độ: ĐMST căn bản và đột phá. ĐMST căn bản được hiểu là đổi mới sáng tạo với một mức độ thay đổi cao. ĐMST đột phá liên quan đến thực thể hoặc xác định thông qua tác động của nó. ĐMST đột phá một khía cạnh khác so với ĐMST liên tục để tăng sự ĐMST.
ĐMST đột phá giải quyết các vấn đề ít được quan tâm nhằm thay thế các sản phẩm, quy trình đã được thiết lập. ĐMST đột phá tập trungvào các vấn đề cơ bản, đơn giản với hiệu suất thấp hơn. So với các sản phẩm, quy trình đã được thiết lập, ĐMST đột phá có hiệu quả chi phí cao hơn, yêu cầu sử dụng ít tài nguyên hơn. Các sản phẩm, quy trình từ ĐMST đột phá được cung cấp với chi phí thấp hơn. ĐMST đột phá tạo ra thị trường mới, giúp triển khai các mô hình kinh doanh để đạt được các giá trị mới.
ĐMST cũng được hiểu là việc gắn các sáng kiến, sáng chế với các tác động cụ thể. Chuyển các sáng kiến, sáng chế thành ĐMST với các tính mới về kỹ thuật, phương thức sản xuất, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ… sẽ giúp DN tăng cường hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đây chính là sự khác biệt giữa giá trị từ ĐMST với các giá trị khác.Chẳng hạn như một cửa hàng bán lẻ bán những gì họ có và họ luôn bán theo cùng cách mà họ đã bán. Như vậy, nếu không có sự thay đổi, các giá trị mà cửa hàng có được sẽ không trở thành các giá trị của ĐMST.
Phân theo các yếu tố
Phân theo các yếu tố quyết định đến ĐMST thường được phân loại thành hai nhóm chính là nhóm các yếu tố bên trong và nhóm các yếu tố bên ngoài.
Các yếu tố bên trong của DN được xây dựng dựa trên quan điểm về nguồn lực của DN. Các yếu tố nội bộ này có vai trò quan trọng trong các chiến lược của DN, trong đó có những quyết định như tham gia vào việc ĐMST.
Các yếu tố bên trong quan trọng ảnh hưởng đến ĐMST thường được nhắc đến là năng lực tài chính và năng lực công nghệ của DN.
Mục tiêu ĐMST
Mục tiêu bao gồm các kết quả đạt được. Nó có thể là chiến lược, chiến thuật hoặc hoạt động.
Các mục tiêu ĐMST được đặt ra bởi tổ chức, DN, phù hợp với tầm nhìn và chính sách ĐMST để đạt được các kết quả cụ thể.
Mục tiêu ĐMST bao gồm các mục tiêu liên quan đến ĐMST.
Nói chung, các mục tiêu ĐMST phải phù hợp với các mục tiêu chung của tổ chức, DN, phù hợp với tầm nhìn ĐMST và chính sách ĐMST; cung cấp đầu vào cho các chiến lược ĐMST.
Do đó, triển khai các hoạt động ĐMST là cách thức mới để một DN thực hiện hiệu quả các mục tiêu chiến lược của DN, bảo đảm sự tồn tại thịnh vượng lâu dài của DN trong tương lai.
Phạm vi của ĐMST
ĐMST mô tả sự phát triển và thay đổi bên trong (tổ chức và hoạt động) của các DN, bên cạnh các hoạt động khác: hoạt động cải tiến, bán hàng, tiếp thị, truyền thông, hợp tác, tái cấu trúc, thành lập mới, sáp nhập, giải thể các đơn vị thành viên…
Hoạt động ĐMST có thể xảy ra, trong tất cả các tổ chức và quá trình của DN: chiến lược, bán hàng, tiếp thị, nghiên cứu và phát triển, tìm nguồn cung ứng, dịch vụ, hỗ trợ và các hoạt động khác.
Giữa các DN trong chuỗi giá trị (nhà cung cấp, nhà phân phối, nhà sản xuất, đơn vị vận chuyển, đơn vị đối tác, khách hàng, người tiêu dùng…).
Trong tất cả các giai đoạn của vòng đời sản phẩm (nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, phân phối, tiếp thị, hỗ trợ, bảo trì, thu hồi, tái chế…).
Hoạt động ĐMST có mục tiêu phục vụ các mục đích khác nhau trong chiến lược chung của DN. Hoạt động ĐMST là hoạt động khám phá những hoạt động mới, được đặc trưng bởi sự không chắc chắn, mang tính thử nghiệm… Do đó, khác với các hoạt động, quy trình khác của DN. Bên cạnh đó, hoạt động ĐMST được xác định dựa trên nhu cầu, cơ hội, thách thức hoặc các vấn đề liên quan đến dịch vụ mà các bên liên quan, xu hướng và các thay đổi khác theo yêu cầu của thị trường và khách hàng.
Hoạt động ĐMST bị thách thức bởi văn hóa hiện có của DN, đối mặt với sự đối kháng và quán tính từ các thói quen hiện tại của DN. Phân tích cụ thể các yếu tố này giúp DN xác định rõ phạm vi, cách thức quản lý hoạt động ĐMST, xây dựng một Hệ thống quản lý ĐMST trong DN.
Đặc điểm của ĐMST
ĐMST có thể là sản phẩm, dịch vụ, quá trình, mô hình, phương pháp, thực thể bất kỳ như về mô hình, ĐMST có thể là mô hình kinh doanh, mô hình hoạt động, mô hình tạo giá trị gia tăng…. Bất cứ điều gì, trong bất kỳ lĩnh vực nào đều có thể được ĐMST.
ĐMST được đặc trưng bởi tính mới và giá trị, trong khi đó tính mới và giá trị là hai đặc điểm cần và đủ của ĐMST.
Để xem xét về giá trị, hoạt động ĐMST của một thực thể cần được triển khai ở một quá trình nhất định. Điều này có nghĩa là những ý tưởng, sáng kiến không mang lại giá trị sẽ không được xem là ĐMST.
Tính mới của ĐMST được xác định bởi nhận thức của các bên liên quan. Chẳng hạn: ĐMST có thể là mới trên thế giới (chưa được thực hiện ở bất cứ nơi nào trên thế giới) hoặc là mới đối với một ngành, lĩnh vực cụ thể hoặc là mới đối với một cộng đồng hoặc một nhóm người. ĐMST không chỉ xảy ra ở trong một thực thể, mà còn có thể là sự kết hợp của nhiều thực thể hiện có.
Theo thời gian, tính mới của ĐMST có thể được chấp nhận, phổ biến rộng rãi trong xã hội tức là dần bị thay thế cái mới hơn. Từ tính mới, đến tính mới thừa nhận, đến bị lỗi thời được gọi là vòng đời hay tuổi thọ của ĐMST. Vòng đời của ĐMST có thể thay đổi, phụ thuộc vào tính mới của ĐMST.
Việc phân phối lại giá trị của ĐMST có thể xảy ra ở các cấp độ khác nhau: cá nhân, DN, xã hội… Giá trị của ĐMST có thể là giá trị tài chính, hữu hình và rất thực tế như doanh thu, tiết kiệm, năng suất, bền vững… hoặc phi tài chính vô hình: sự hài lòng, kinh nghiệm, niềm tin… Tính giá trị từ ĐMST được xác định bởi các bên liên quan. Các nhà sản xuất, nhà phân phối, người tiêu dùng trong chuỗi giá trị có thể được cảm nhận và nhận biết giá trị của ĐMST khác nhau.
Tương tự giá trị của các sản phẩm, dịch vụ, quá trình, mô hình, phương pháp…, DN thường xem xét các lợi ích liên quan đến chi phí xác định giá trị của ĐMST để triển khai thực hiện. Giá trị của ĐMST được tăng lên theo thời gian, từ giá trị đó không chắc chắn đến được DN triển khai và tới được xã hội công nhận.
Hiện thực hóa giá trị là mục tiêu và là lý do để thu hút DN tham gia vào hoạt động ĐMST.
Thuộc tính của ĐMST
Thuộc tính của ĐMST nhằm mô tả nội dung đổi mới sáng tạo, cách thức ĐMST và lý do ĐMST. ĐMST có thể được mô tả bằng nhiều thuộc tính.
Thuộc tính mô tả nội dung của ĐMST: mô tả về thực thể được ĐMST như: ĐMST sản phẩm, dịch vụ, quá trình, mô hình kinh doanh, hệ thống quản lý… Mức độ thay đổi của thực thể, từ mức độ thay đổi tăng dần đến sự thay đổi căn bản: ĐMST tăng dần, ĐMST căn bản, đột phá…
Thuộc tính mô tả cách thức ĐMST: Đối tượng thực hiện các hoạt động ĐMST: ĐMST của người sử dụng, của nhân viên, của tập thể… Các nguồn lực cần có để ĐMST: ĐMST nội bộ (sử dụng nguồn lực trong DN), ĐMST mở (sử dụng nguồn lực trong và ngoài DN), ĐMST hợp tác (sử dụng nguồn lực của một hoặc nhiều đối tác)…
Thuộc tính mô tả lý do ĐMST: hiện thực hóa giá trị khi triển khai ĐMST trong DN: ĐMST để tăng trưởng, để phát triển bền vững, triển khai chiến lược, để tăng năng suất … Tạo ra sự thay đổi tác động đến các bên liên quan: ĐMST đột phá…
Bản chất của ĐMST
ĐMST được xem là một khuôn khổ cho sự thay đổi, dẫn đến hình thành các giải pháp có tác động tích cực đến môi trường, kinh tế và xã hội.
ĐMST thể hiện tính mới hoặc sự thay đổi cơ bản, qua đó tạo ra giá trị mới hoặc thay đổi các giá trị hiện có. ĐMST có thể được thể hiện dưới hình thức sản phẩm, dịch vụ, quá trình, mô hình, phương pháp…
Tính mới hoặc sự thay đổi cơ bản được thể hiện bằng việc tạo mới hoặc cải tiến (hoặc kết hợp) một sản phẩm, quá trình để hình thành sản phẩm, quá trình khác biệt đáng kể với sản phẩm, quá trình trước đó.
Tạo ra giá trị mới hoặc thay đổi các giá trị hiện có là việc đưa các giá trị mới vào trong các cấu phần khác hoặc trực tiếp đưa đến người sử dụng.
ĐMST còn được coi là một kết quả. ĐMST có khi đề cập đến các hoạt động hoặc quá trình để hướng đến mục tiêu ĐMST. ĐMST luôn được sử dụng với một số hình thức cụ thể như hoạt động ĐMST.
Vai trò của ĐMST
Đối với DN, thực hiện ĐMST là tất yếu, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Công nghệ thay đổi ngày càng nhanh, áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng, nhu cầu của khách hàng ngày càng đa dạng và thường xuyên thay đổi… đặt ra thách thức không nhỏ cho các DN. Bên cạnh đó, những đổi mới mang tính đột phá từ những đối thủ khác trong ngành có thể tạo ra áp lực lớn hơn nhằm tìm ra con đường mới để phát triển của DN. Để tồn tại và phát triển, DN phải liên tục đổi mới, ngay cả khi quá trình này diễn ra rất chậm. Về mặt này, tiến bộ kỹ thuật là chưa đủ để đảm bảo thành công. Đổi mới cũng có nghĩa là dự đoán nhu cầu của thị trường, cung cấp chất lượng hoặc dịch vụ bổ sung, tổ chức hiệu quả, nắm vững chi tiết và kiểm soát chi phí. Do đó, chỉ DN ĐMST mới là các DN của tương lai, được đặc trưng bởi mức độ nhận thức cao, tính linh hoạt và khả năng thích ứng với những biến động, khả năng tích hợp thành công các công nghệ mới trong hệ thống hiện có với thời gian và chi phí tối thiểu.
ĐMST là yếu tố chính quyết định năng lực cạnh tranh, tăng trưởng, lợi nhuận và tạo ra các giá trị bền vững. ĐMST cho phép DN tạo ra lợi thế cạnh tranh dài hạn thông qua việc tập hợp tri thức, kỹ năng về công nghệ, kinh nghiệm trong sáng tạo và phát triển và giới thiệu ý tưởng mới trong hình thức của đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình sản xuất hoặc đổi mới mô hình kinh doanh. Nhìn chung, ĐMST đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu suất và năng lực cạnh tranh của DN.
ĐMST dưới hình thức là sản phẩm mới góp phần gia tăng doanh số vì các sản phẩm mới này đóng góp đáng kể vào sự hài lòng của khách hàng hiện tại cũng như tìm kiếm được các khách hàng mới. Đổi mới sản phẩm mang lại lợi ích cho năng suất của DN bằng cách tạo ra một nguồn nhu cầu tiềm năng có khả năng làm tăng hiệu ứng quy mô hoặc yêu cầu ít đầu vào hơn so với các sản phẩm cũ. Mức độ ảnh hưởng của đổi mới sản phẩm tới năng suất của DN là khác nhau tùy thuộc vào tính mới (một sản phẩm là mới với thị trường sẽ có tiềm năng lớn hơn trong việc gia tăng năng suất. Ngoài ra, ĐMST cho phép DN trình bày sản phẩm mới hoặc sản phẩm được cải thiện tới thị trường trước các đối thủ cạnh tranh và do đó có thể gia tăng thị phần của DN.
Đổi mới quy trình sản xuất sẽ làm giảm chi phí sản xuất hoặc chi phí vận chuyển, gia tăng chất lượng sản phẩm. Đổi mới phương pháp tổ chức có thể là tiền đề và tạo điều kiện cho đổi mới sản phẩm và đổi mới quy trình, vì thành công của đổi mới sản phẩm và quy trình phụ thuộc vào sự thích hợp của những thay đổi đó đối với cơ cấu tổ chức của DN. Đổi mới phương pháp tổ chức làm giảm chi phí hành chính hoặc chi phí giao dịch, cải thiện tính linh hoạt và sự hài lòng nơi làm việc và do đó gia tăng năng suất lao động. ĐMST về quy trình sản xuất và phương pháp tổ chức đóng góp lớn cho việc giảm chi phí và gia tăng tính linh hoạt của DN.
Đổi mới marketing làm gia tăng sự hài lòng của khách hàng cũng như trực tiếp hướng sự quan tâm của khách hàng tới DN; đồng thời giúp DN thích ứng hơn với sự thay đổi của các điều kiện thị trường. Thông qua đổi mới marketing, việc thực hiện các phương pháp bán hàng và phân phối mới có thể nâng cao hiệu quả và hiệu suất của DN.
Các yếu tố ảnh hưởng đến ĐMST
Các yếu tố quyết định đến ĐMST thường được phân loại thành hai nhóm chính là nhóm các yếu tố bên trong và nhóm các yếu tố bên ngoài.
Các yếu tố bên trong
Khả năng tài chính là nhân tố quan trọng trong việc quyết định một DN có nên ĐMST hay không. Một DN muốn ĐMST cần xem xét khả năng thanh toán các khoản chi phí chi cho đổi mới và các hoạt động khác của DN. Dựa vào nguồn lực tài chính của mình mà DN có thể lựa chọn hình thức đầu tư cho ĐMST một cách cho phù hợp. ĐMST thường được xem là kết quả từ đầu tư vào R&D. Mức chi cho R&D là phương pháp đo lường ĐMST được sử dụng rộng rãi nhất, ưu điểm của phương pháp này là sự dễ dàng trong việc lượng hóa, tuy nhiên việc ghi chép các khoản chi cho R&D có thể không rõ ràng trong một số DN nên một phương pháp đo lường đơn giản hơn được sử dụng là câu hỏi dạng có hoặc không có R&D. Tương tự như bất kỳ khoản đầu tư nào khác, các hoạt động chi tiêu cho R&D đòi hỏi nguồn lực tài chính của DN phải đủ mạnh vì mức chi cho R&D thường tốn kém, trong đó có việc chi trả cho nhân sự R&D đòi hỏi mức lương cao vì họ có trình độ cao. Các nghiên cứu thực nghiệm thường đưa ra kết quả về sự ảnh hưởng mạnh mẽ của đầu tư cho R&D đối với hoạt động ĐMST.
Năng lực ĐMST bao gồm các yếu tố như nhân lực, khả năng tiếp thu, nắm vững công nghệ. Một DN có năng lực ĐMST cao là một DN có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân giỏi, có thể khả năng nắm bắt và làm chủ những thay đổi mới, công nghệ mới đồng thời có thể cải tiến hệ thống cũ, sáng tạo công nghệ nhập cho phù hợp với DN của mình. Tác động của năng lực nhân viên đối với thành công của các hoạt động ĐMST của một DN. Bên cạnh đó, chi phí đào tạo có liên quan đến việc giới thiệu các sản phẩm và quy trình mới hoặc cải tiến cũng được coi là một phương pháp đầu vào đo lường ĐMST, việc chi tiêu cho đào tạo nhân viên có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động ĐMST.
Các yếu tố bên ngoài
ĐMST mang tính hệ thống, nghĩa là hoạt động ĐMST không phải mang yếu tố đơn lẻ của từng DN mà còn phụ thuộc vào sự liên kết và tương tác giữa DN với các tổ chức khác. Các DN, các trường đại học hay các viện nghiên cứu và chính quyền địa phương là những nhân tố cấu thành các hệ thống ĐMST này. Sự hợp tác, liên kết giữa DN với các tổ chức trong hệ thống đổi mới khu vực như các trường đại học, các viện nghiên cứu có tác động quan trọng đến ĐMST của DN vì nó tạo nên lợi thế kinh tế nhờ quy mô, cũng như tạo thuận lợi trong việc phổ biến các kết quả đổi mới.
Bên cạnh đó, ĐMST của DN còn phụ thuộc vào thể chế. Nội dung của thể chế, chính sách bao gồm các quy định pháp luật, chính sách về đầu tư, tài chính, công nghệ, thị trường,… của chính quyền. Điều này điều tiết cả đầu vào và đầu ra cũng như toàn bộ quá trình hoạt động của DN, do đó đây là yếu tố quan trọng để các nguồn lực được phân bổ hiệu quả, thúc đẩy ĐMST. Cơ chế, chính sách của và sự ủng hộ của chính quyền địa phương hỗ trợ cho các hoạt động R&D nói riêng và ĐMST nói chung đóng một vai trò quan trọng trong thành công sáng tạo của DN.
Các rào cản đối với ĐMST
Sự ĐMST của con người là vô hạn, nhưng không phải ai cũng dám áp dụng
những ý tưởng ĐMST của mình vào thực tế vì nhiều lý do khác nhau. Lý do chính là vì trong quá trình tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu theo định hướng ĐMST, mỗi cá nhân, tập thể có thể phải đối mặt với nhiều rào cản, đặc biệt là các rào cản về tâm lý, tâm thức. Chính những điều đó vô tình trở thành rào cản ĐMST.
Lối mòn tư duy: Càng trưởng thành, con người càng có nhiều định kiến về mọi thứ. Các định kiến đó là do các lối mòn tư duy đã hình thành trong cuộc sống. Những định kiến này thường làm cho chúng ta không nhìn nhận được thấu đáo những gì mà chúng ta đã biết hay tin tưởng là có thể xảy ra. Chúng ngăn cản sự thay đổi và tiến bộ. Đó là những lối nghĩ thông thường. Đó là sức ỳ của tư duy do đã quen suy nghĩ theo lối mòn.
Tin vào kinh nghiệm: Khi thực hiện một kế hoạch hay quyết định một vấn đề gì đó, có thể người ta không cần suy nghĩ, tìm giải pháp tốt nhất, ý tưởng mới, mà lại cho rằng những việc đó mình đã làm nhiều lần rồi, không có gì phải suy nghĩ, đắn đo. Chính sự quá tin tưởng vào kinh nghiệm đó vô tình giết chết tư duy ĐMST của chính họ. Do đó, nếu muốn làm một việc gì hay quyết định vấn đề gì đó, dù rất quen thuộc, cũng đừng vội vàng tin tưởng vào những kinh nghiệm có sẵn mà hãy đặt ra những câu hỏi; tìm ra góc độ khác cho vấn đề và thử tìm cách giải quyết theo hướng khác, cách thức khác
Sợ thất bại: Sợ thất bại cũng là nguyên nhân chính gây cản trở tư duy sáng tạo. Những cách nghĩ mới, cách làm mới thường phải đối mặt với nhiều rủi ro và nguy cơ thất bại cao. Người mang tâm lý này thường nghĩ: tôi không phải là người sáng tạo, tôi không thể giải quyết vấn đề đó, tôi sợ phải trả giá cho sự thất bại. Họ thường cảm thấy không đủ khả năng để giải quyết vấn đề gặp phải: không đủ năng lực, trình độ, kinh nghiệm, khả năng sáng tạo… Họ gác súng ngay trước khi trận chiến bắt đầu, từ chối vấn đề khi chưa hề giải quyết nó. Do đó, nhiều người chọn cách an toàn là cứ làm theo cái sẵn có. Chính suy nghĩ như vậy sẽ biến người ta trở thành kẻ nhát gan, không dám khám phá, thử những cái mới, dần dần sẽ làm thui chột sự tư suy sáng tạo của chính mình. Bên cạnh đó, tính lười biếng cũng khiến chúng ta không suy nghĩ, mà không suy nghĩ thì không thể suy nghĩ sáng tạo…Thực chất, ai cũng có năng lực sáng tạo, chỉ cần có đủ niềm tin và sự dũng cảm, ai cũng có thể tìm ra lời giải cho những vấn đề mà mình gặp phải, ít nhất là những vấn đề liên quan đến cuộc sống cá nhân.
Sợ bị chê cười: Khi tạo ra một cái gì đó mới. Người có tâm lý ngại thay đổi thường quan tâm đến việc người khác sẽ nghĩ gì và lo sợ các ý tưởng của mình bị đánh giá như “trò trẻ con”. Thực tế của cuộc sống, những ý tưởng mới ra đời thường có thể bị chế nhạo, chỉ trích. Những người có ĐMST là những người hay có những ý tưởng khác người và ít được sự chấp thuận của mọi người xung quanh. Chính vì tâm lý sợ bị chê cười nên nhiều ý tưởng chỉ được dừng lại ở suy nghĩ và không dám bộc lộ ra, lâu dần nó khiến người ta trở nên tự ti với chính những tư tưởng, sáng tạo của mình, không muốn nghĩ đến những ý tưởng được cho là điên rồ đó nữa. Do đó, cần lưu ý: những tiến bộ được thực hiện chỉ bởi những người có đủ sức mạnh để chịu đựng sự cười chê. Khi vượt qua tâm lý ngại thay đổi, mỗi cá nhân tự cởi bỏ những ràng buộc cho tư duy sáng tạo của mình.
Không muốn chấp nhận những ý tưởng khác thường: Nhiều người ngại tư duy sáng tạo, chỉ thích làm theo người khác, chỉ bám theo đuôi của những ý tưởng có sẵn trước đó của người khác mà không muốn động não, tư duy để tìm ra những sáng kiến, ý tưởng mới cho công việc cũng như trong cuộc sống. Những người có tư duy sáng tạo là những người dám vượt qua những quy tắc, chuẩn mực có sẵn trước đó. Còn những người chỉ dám thu mình, chỉ để đảm bảo an toàn cho mình sẽ không thể có những ý tưởng hay, khác lạ, không dám đột phá vượt ra ngoài những quy tắc. Những người đó sẽ khó có được những ý tưởng hay, hướng giải quyết công việc khác cho dù họ có thể đã nghĩ đến nó. Họ luôn giải quyết mọi việc theo hướng mà người khác đã làm; thích làm theo kiểu “nước tới đâu bắc cầu tới đó” để giải quyết công việc.
Chấp nhận sự sẵn có: Đó là khi con người chỉ muốn đi theo một lối mòn đã được nhiều người đi trước đó hoặc chính họ là người cũng đã nhiều lần đi trên con đường đó. Họ không muốn sáng tạo ra một con đường mới vì nhiều lý do khác nhau. Hơn nữa sự có sẵn lúc nào cũng mang lại cảm giác an toàn, cho dù nó có cũ đến mức nào. Nếu có tư tưởng chấp nhận sự có sẵn như vậy, khó có thể sáng tạo. Hãy nhanh chóng thay đổi, nếu không đó sẽ là rào cản rất lớn đối với việc tư duy sáng tạo. Đó là sức ỳ của tư duy do đã quen suy nghĩ theo cái có sẵn. Ngoài ra, tính lười biếng cũng khiến con người không suy nghĩ, mà không suy nghĩ thì không thể suy nghĩ sáng tạo. là xóa bỏ khỏi tâm trí cụm từ “Không thể có ý tưởng/ cách/giải pháp nào hay hơn nữa!”. Đừng luôn tuân theo những cách giải quyết vấn đề đã có, đừng chấp nhận những ý tưởng mà ai cũng nghĩ ra được, đừng hài lòng với sản phẩm hiện đang có. Luôn đặt ra cho mình một đòi hỏi là hãy tìm tòi điều gì đó mới hơn, lạ hơn, “độc” hơn.
Tác động của ĐMST
ĐMST tác động làm chuyển đổi hoạt động của DN và các bên liên quan. Tùy thuộc vào bối cảnh của DN, ĐMST có thể tác động vào những thay đổi nhỏ của DN theo thời gian. Điển hình: tác động ban đầu của ĐMST được thể hiện là những cải tiến liên tục, có thể dự đoán được. Sau đó, DN triển khai các hoạt động ĐMST nhiều hơn, tích hợp với sự thay đổi lớn trong việc tạo giá trị để hình thành nền tảng hoặc thế hệ sản phẩm, dịch vụ mới của DN.
ĐMST có tác động phân phối lại, thay thế, thậm chí phá hủy chuỗi giá trị, hoặc hệ sinh thái của các bên liên quan. Hoạt động ĐMST liên tục sẽ làm thay đổi sự phân phối giá trị trong xã hội, từ đó có thể dẫn đến những cơ hội và thách thức mới cho một địa phương, quốc gia.
Một số bên quan tâm có thể bị tác động tiêu cực bởi một số hoạt động ĐMST có tính chất đột phá. Trong một số bối cảnh cụ thể, DN cần xem xét, đánh giá các hoạt động ĐMST có cả tác động tích cực và tiêu cực, vượt ra ngoài lợi ích của các bên liên quan.
Do đó, một số vấn đề liên quan đến ĐMST trong một DN cần được xem xét: tác động của ĐMST đối với lợi ích tài chính, tiềm năng tiếp cận thị trường mới và các lợi ích xã hội…; tính mới và tác động của các kết quả ĐMST đến niềm tin của khách hàng; phân loại các cấp hoặc kết quả của ĐMST dựa theo 02 khía cạnh là tính mới và tính tác động; cân nhắc, xem xét các giải pháp có thể là ĐMST hay không…
ĐMST được thúc đẩy bởi cơ hội và thách thức. Con người luôn mơ ước về một cuộc sống, xã hội tốt hơn. Công nghệ mới nổi đang duy trì quy mô, đẩy nhanh tốc độ thay đổi, tương tác và tác động sâu sắc đến các cá nhân, DN, tổ chức và xã hội.
Tác động ĐMST đóng góp đến 90% đối với mức độ cạnh tranh của nền kinh tế, 91% đối với nền kinh tế xanh, 86% quan hệ hợp tác, 86% trong các công việc mới, 87% đối với việc mang lại giá trị cho toàn xã hội; đóng góp thay đổi cuộc sống của người dân trong tương lai 10 năm tới: 90% đối với giao tiếp, 87% đối với chất lượng sức khỏa, 84% đối với thị trường lao động và 84% đối với chất lượng môi trường.
Động lực của ĐMST đã nghiên cứu và đo lường được vào khoảng: 66% giá trị ĐMST sẽ tác động đến đời sống người dân, 65% trường học và viện nghiên cứu sẽ tham gia hoạt động ĐMST, 62% bằng độc quyền sáng chế sẽ thúc đẩy ĐMST, 58% nhà đầu tư tư nhận sẽ hỗ trợ để thực hiện ĐMST, 48% phân bổ ngân sách sẽ tập trung hỗ trợ các hoạt động ĐMST, 43% hỗ trợ của chính quyền về tổ chức và triển khai các hoạt động ĐMST.
Tóm lại, năng lực đổi mới sáng tạo của một DN trước hết là khả năng hiểu và đáp ứng với các điều kiện thay đổi hoàn cảnh, theo đuổi các cơ hội mới, tận dụng kiến thức, sức sáng tạo của mọi người trong DN, đồng thời phối hợp tốt với các bên liên quan và đối tác bên ngoài. Một DN được coi là ĐMST nếu DN đó đã giới thiệu ít nhất một sản phẩm hoặc quy trình mới, hoặc được cải tiến đáng kể, hoặc đã giới thiệu một trong những thay đổi về chiến lược marketing, thay đổi các kỹ thuật quản lý hoặc cơ cấu tổ chức.