Cổng thông tin Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp > AIAdmin > Intro
Dạy nghề Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời, gắn liền với sự xuất hiện, tồn tại của nền văn minh lúa nước và các làng nghề truyền thống. Người Việt cổ xưa truyền nghề cho các thế hệ nối tiếp để sản xuất, duy trì cuộc sống; đó là các hình thức truyền nghề dưới dạng bắt chước tự nhiên thời tiền sử đến bắt chước có ý thức và truyền nghề theo phường, hội.
Cuối thế kỷ 19 đã hình thành tổ chức đào tạo chính quy tại một số trường dạy nghề như trường kỹ nghệ thực hành tại Hà Nội (1898), trường kỹ nghệ thực hành Huế (1889) và trường Bá nghệ Sài Gòn (1889), trường kỹ nghệ thực hành Hải Phòng (1913). Đầu thế kỷ 20 những cơ sở dạy nghề đầu tiên được thành lập với nhiều loại hình khác nhau như: lớp dạy nghề tại xí nghiệp, trường nghề… Thời kỳ này số lượng học sinh rất ít, chỉ đủ cung cấp cho những ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp tiêu dùng, công nghiệp khai thác tài nguyên, nhằm đem lại lợi nhuận cho thực dân Pháp.
Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 và trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, mặc dù chưa có điều kiện phát triển, nhưng dạy nghề đã kịp thời đào tạo đội ngũ công nhân, cán bộ quốc phòng, y tế, nông nghiệp, sư phạm… theo hình thức trường lớp nhỏ, ngắn hạn, phân tán trong chiến khu, vùng tự do, vừa làm vừa học, coi trọng thực hành, gắn với thực tiễn, phù hợp với hoàn cảnh “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến”.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 đến năm 1975, đất nước tạm chia làm hai miền. Ở miền Bắc ngành dạy nghề đã vươn lên nhanh chóng và có sự hỗ trợ có hiệu quả của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa đã đáp ứng cả hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và thống nhất đất nước. Do yêu cầu phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ xây dựng miền Bắc và giải phóng miền Nam, Chính phủ đã thành lập Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật trực thuộc Bộ Lao động. Đây là mốc lịch sử đánh dấu sự hình thành, phát triển lớn mạnh của ngành dạy nghề.
Từ năm 1955 đến năm 2014, cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề có sự thay đổi như sau:
– Giai đoạn từ năm 1955 – 1978: Bộ Lao động
+ Giai đoạn từ năm 1955 – 1969: Ngày 18/5/1955 Chính phủ ban hành Nghị định số 532/TTg về việc thành lập Vụ Quản lý nhân công trực thuộc Bộ Lao động. Giai đoạn này có 30 trường, quy mô đào tạo là 14.000 học sinh/năm.
+ Giai đoạn từ năm 1969 – 1978: Ngày 9/10/1969 Chính phủ ban hành Nghị định số 200/CP về việc thành lập Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật trực thuộc Bộ Lao động. Giai đoạn này có 159 trường, quy mô đào tạo là 48.000 học sinh/năm.
– Giai đoạn từ năm 1978 – 1987: Ngày 24/6/1978 Chính phủ ban hành Nghị định số 151/NĐ-CP quyết định tách Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật khỏi Bộ Lao động và đổi tên là Tổng cục Dạy nghề trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng.
Giai đoạn này, ngành dạy nghề phát triển mạnh mẽ, đa dạng (có 366 trường dạy nghề, 212 trung tâm dạy nghề, toàn ngành có 9.833 giáo viên và quy mô đào tạo ở giai đoạn này trung bình là 176.000 học sinh/năm). Kết quả nổi bật là hình thành hệ thống trung tâm dạy nghề ở các quận, huyện, thị xã để đào tạo nghề ngắn hạn cho người lao động theo phương châm “Nhà nước, tập thể và người dân cùng chăm lo sự nghiệp dạy nghề”. Ngành dạy nghề là ngành đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân thực hiện xã hội hóa, phá thế bao cấp trong đào tạo. Quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dạy nghề mở rộng: Việt Nam tham gia và đăng cai tổ chức Hội nghị những người đứng đầu ngành dạy nghề các nước XHCN; đã đưa khoảng 80.000 thanh niên và người lao động đi học nghề, thực tập nâng cao tay nghề tại Liên xô (cũ), CHDC Đức (cũ), Tiệp Khắc (cũ), Trung Quốc, Triều Tiên, Hungari, Rumani, Ba Lan và Bungari… Đội ngũ công nhân kỹ thuật sau khi học nghề có điều kiện tiếp cận với nền sản xuất tiên tiến, với tác phong công nghiệp nên có những đóng góp quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
– Giai đoạn từ năm 1987 – 1990: Tổng cục Dạy nghề sáp nhập vào Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp thành Bộ Đại học, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề, Tổng cục Dạy nghề chỉ còn là Vụ Đào tạo nghề. Hệ thống đào tạo nghề còn 198 trường, quy mô đào tạo còn 78.000 học sinh/năm.
– Giai đoạn từ năm 1990 – 1998: Ngày 31/3/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 244-NQ/HĐNN8 về việc thành lập Bộ Giáo dục và Đào tạo trên cơ sở Bộ Giáo dục – Bộ Đại học, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề. Thời gian này quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo nghề bị thu hẹp hơn và chỉ còn là một bộ phận trong Vụ Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề; mạng lưới còn 129 trường; quy mô đào tạo 55.000 học sinh/năm.
– Giai đoạn từ năm 1998 đến 7/2017:
Trước nhu cầu phát triển kinh tế – Xã hội và phát triển nhân lực trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Để khắc phục những hạn chế, yếu kém của công tác đào tạo nghề, Bộ Chính trị đã quyết định: “Từ nay chuyển nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo nghề từ Bộ Giáo dục và Đào tạo sang Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội“. Thực hiện Quyết định của Bộ Chính trị (tại Văn bản số 1481-CV/VPTW ngày 08/12/1997), Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 67/1998/QĐ-TTg ngày 26/3/1998 về việc chuyển giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo nghề từ Bộ Giáo dục và Đào tạo sang Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội; ngày 23/5/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 33/1998/NĐ-CP về việc thành lập Tổng cục Dạy nghề thuộc Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
– Từ 8/2017:
Ngày 27/11/2014, Quốc hội khóa XIII thông qua Luật giáo dục nghề nghiệp theo đó, hệ thống các trường cao đẳng, cao đẳng nghề thành cao đẳng; trung cấp, trung cấp nghề thành trung cấp để hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp gồm 3 trình độ đào tạo là Cao đẳng, Trung cấp và Sơ cấp.
Nghị quyết 76/2016/NQ-CP ngày 03/9/2016 Chính phủ thống nhất giao Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp.
Ngày 03/7/2017, Chính phủ ban hành Quyết định số 29/2017/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp thuộc Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội theo đó, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp được hình thành giúp Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý hoạt động giáo dục nghề nghiệp trong toàn quốc.
Những quyết định quan trọng trên tạo bước phát triển mới cho dạy nghề trước ngưỡng cửa thế kỷ 21. Giai đoạn này tuy còn một số khó khăn nhưng dạy nghề đã vượt qua giai đoạn suy giảm nghiêm trọng, phục hồi và có bước phát triển mới, cụ thể là: Đã hình thành hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tương đối đồng bộ và thống nhất tạo hành lang pháp lý để điều chỉnh hoạt động dạy nghề (Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, Quy hoạch mạng lưới các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề; Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 – 2020,…); hình thành hệ thống dạy nghề gồm dạy nghề chính quy và dạy nghề thường xuyên với 3 trình độ đào tạo thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động, yêu cầu của quá trình CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế và tiếp cận với nền kinh tế tri thức; hệ thống dạy nghề đã bước đầu chuyển từ “cung” sang “cầu”, gắn với doanh nghiệp, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học nghề của người lao động và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia về chất lượng nguồn nhân lực. Đến tháng 5/2014, quy mô đào tạo nghề ngày càng mở rộng, cả nước có 165 trường cao đẳng nghề, 301 trường trung cấp nghề, 874 trung tâm dạy nghề và các cơ sở dạy nghề khác tại doanh nghiệp và tại các cơ sở giáo dục khác, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 13,4% năm 1998 lên 34,9 năm 2013. Cùng với việc tăng đầu tư nguồn lực cho đào tạo nghề thông qua Chương trình mục tiêu, các chương trình, dự án hợp tác với nước ngoài (Ngân hàng Châu Á, CHLB Đức, Hàn Quốc, Thụy Sỹ, Đan Mạch, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Áo, ILO…) và các nguồn lực huy động xã hội hóa… đã góp phần đáp ứng được các điều kiện bảo đảm chất lượng; dạy nghề đã từng bước phát triển theo hướng hiện đại hóa, chuẩn hóa và xã hội hóa, từng bước đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong nước và xuất khẩu lao động.
Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, ngành dạy nghề đã có những đóng góp to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc: Nhiều cơ sở dạy nghề đã phát triển nhanh chóng, có trường đã được Nhà nước tuyên dương là đơn vị anh hùng; các thế hệ cán bộ, giáo viên, giảng viên và học sinh, sinh viên đã phát huy truyền thống, tiếp bước cha anh viết lên những trang sử vàng cho sự nghiệp dạy nghề trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Phong trào thi đua dạy tốt, học tốt trong toàn ngành đã được đẩy mạnh; các hoạt động như Kỳ thi tay nghề các cấp (Quốc gia, ASEAN và thế giới), hội giảng giáo viên dạy nghề, hội thi thiết bị dạy nghề tự làm… đã trở thành hoạt động thường xuyên từ cơ sở dạy nghề đến toàn quốc và mang lại hiệu quả thiết thực: hàng ngàn giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi từ cấp cơ sở đến cấp tỉnh, thành phố và toàn quốc; hàng trăm giáo viên là giáo viên tiêu biểu được nhận giải thưởng Nguyễn Văn Trỗi; nhiều cán bộ, giáo viên đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, nhiều người đã trở thành cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, những chuyên gia kỹ thuật, công nghệ đầu đàn, những công nhân lành nghề bậc cao; nhiều học sinh đã đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi nghề cấp tỉnh, quốc gia và quốc tế; hàng triệu lao động qua đào tạo nghề đã và đang làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp; trên các công trường, đồng ruộng, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bước vào giai đoạn tới, ngành dạy nghề đang đứng trước những cơ hội phát triển mới với nhiệm vụ lớn lao nhưng cũng đầy thách thức để góp phần đưa nước ta chuyển dịch từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Đào tạo nguồn nhân lực là một trong những nhân tố đóng vai trò quyết định, trong đó dạy nghề phải đảm nhận đào tạo 60-65% trong tổng số lực lượng lao động. Do đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 630/QĐ-TTg ngày 29/5/2012 về phê duyệt Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 – 2020, với mục tiêu: Đến năm 2020, dạy nghề đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu nghề và trình độ đào tạo; chất lượng đào tạo của một số nghề đạt trình độ các nước phát triển trong khu vực ASEAN và trên thế giới; hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; phổ cập nghề cho người lao động, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao thu nhập, giảm nghèo vững chắc, đảm bảo an sinh xã hội./.