Cổ tức thưởng hay cổ phiếu thưởng – Khái niệm nào mới đúng?

Vũ Hải Yến
0
Chứng khoán

Hiện nay, ngày càng nhiều doanh nghiệp niêm yết thực hiện chia cổ tức bằng cổ phiếu và chia tách cổ phiếu theo các tỷ lệ. Dù vậy, nhiều nhà đầu tư cá nhân vẫn đang mù mờ, chưa hiểu rõ được bản chất tài chính thật sự của các nghiệp vụ trên.

Cổ tức là gì?

Cổ tức được hiểu là một phần lợi nhuận sau thuế được chia cho các cổ đông của công ty. Mục đích cơ bản của kinh doanh là tạo lợi nhuận cho chủ sở hữu hay cổ đông của nó. Cổ tức chính là phương thức quan trọng nhất để phân phối cũng như thực hiện nhiệm vụ này.

Ở Việt Nam, việc trả cổ tức thuộc quyền của Đại hội đồng cổ đông và được trả mỗi năm một hoặc hai lần.

Hình thức trả cổ tức bao gồm:

  • Trả cổ tức bằng tiền: Sẽ làm giảm lượng tiền của doanh nghiệp trong việc kinh doanh, nhưng suy cho cùng đó mới là mục đích chính của kinh doanh.
  • Trả cổ tức bằng cổ phiếu: Công ty sẽ phát hành thêm cổ phiếu để trả cô đông, thay vì tiền mặt nhằm giữ lại tiền hoạt động kinh doanh của mình.
  • Chia cổ phiếu thưởng: bản chất giống hệt như trả cổ tức bằng cổ phiếu.

Ngoài ra một số doanh nghiệp còn trả cổ tức bằng một công cụ nợ, được gọi là cổ tức nghĩa vụ (cổ tức nợ); bằng tài sản, giấy khất nợ với cam kết khoản tiền sẽ được trả vào một ngày nào đó trong tương lai.

Cổ tức có khác với cổ phiếu không

Thường thì đối với những doanh nghiệp đã hoạt động ổn định, trả bằng cổ tức tiền mặt thường được nhà đầu tư ưa thích hơn. Đơn giản vì đó là tiền thật, thu nhập thật, là minh chứng cho tình hình tài chính doanh nghiệp được điều hòa tốt. Hơn nữa, nếu doanh nghiệp đã bị “khó” tiền mặt mà lại thêm “nghĩa vụ” (thêm cổ phần lưu hành) thì có thể là gánh nặng. Vậy nên, việc trả cổ tức bằng cổ phiếu thường chỉ được các công ty mới, đang tăng trưởng mạnh, hoặc có kế hoạch phát triển và lạc quan về hiệu quả hoạt động, áp dụng.

Có nhiều người bị nhầm lẫn giữa hai khái niệm cổ tức thưởng là gì và cổ phiếu thưởng là gì. Có thể phân tích về mặt ngữ nghĩa như định nghĩa ở trên, “cổ tức” là phần lợi nhuận sau thuế được chia lại cho các cổ đông, vì vậy có thể coi “cổ tức” vốn là một “phần thưởng” dành cho các cổ đông, nên “cổ tức thưởng” là một từ vô nghĩa, là một khái niệm sai không hề tồn tại. Còn về khái niệm “cổ phiếu thưởng”, ta sẽ tìm hiểu rõ hơn ở phần dưới này.

Đăng ký ngay

Định nghĩa cổ phiếu thưởng

Cổ phiếu thưởng là gì?

Khái niệm “cổ phiếu thưởng” được sử dụng khi cổ đông nhận được cổ phiếu mà không phải trả tiền do công ty trả cổ tức bằng cổ phiếu. Khi thưởng cổ phiếu cho cổ đông, doanh nghiệp thường dùng nguồn hình thành từ vốn thặng dư (số tiền chênh lệch giữa giá bán và mệnh giá khi doanh nghiệp phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ) và lợi nhuận tích lũy lại qua các năm (giống như khi trả cổ tức bằng cổ phiếu) để chuyển thành vốn điều lệ.

Xem ngay: Có nên đầu tư vào cổ phiếu ưu đãi cổ tức hay không?

Bản chất của việc chia cổ phiếu thưởng

Việc chia cổ phiếu thưởng bản chất không thay đổi về mặt tài chính, kinh doanh mà chỉ thay đổi về mặt bút toán báo cáo kế toán từ lợi nhuận chưa phân phối sang vốn chủ sở hữu.

Đối với doanh nghiệp

Các doanh nghiệp vẫn chọn hình thức chia thưởng cổ phiếu. Có muôn vàn lý do để giải thích điều này. Có doanh nghiệp chia cổ phiếu thưởng để nhằm hỗ trợ cổ đông không phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Nhưng cũng có những doanh nghiệp chọn hình thức này để tăng vốn điều lệ, từ đó tăng năng lực tài chính và có cơ hội tiếp cận khoản vay lớn hơn để thực hiện các dự án lớn…

Đối với nhà đầu tư

Đối với nhà phân tích cơ bản hay đầu tư giá trị, việc chia tách cổ phiếu này dường như vô ích. Đây chính là lý do Bershire Hathaway của tỷ phú Warren Buffett chưa bao giờ chia tách hay trả cổ tức bằng cổ phiếu, giá của cổ phiếu này năm 2017 là hơn 6 tỷ đồng/ 1 cổ phiếu loại A.

Đối với nhà phân tích kỹ thuật, đầu cơ thì có thể tận dụng điều này vì nó tác động về mặt tâm lý của các nhà đầu tư trong ngắn hạn. Ví dụ với những cổ phiếu có thị giá cao, việc chia tách sẽ gia tăng tính thanh khoản do giá cổ phiếu đã được điều chỉnh giảm theo tỷ lệ chia thưởng.

Những nhà đầu tư ít vốn sẽ có cơ hội đầu tư khi có cảm giác cổ phiếu đã rẻ đi. Việc cho phép nhiều nhà đầu tư có mức tiền vừa phải sẽ tham gia nhiều hơn, làm tăng cầu chứng khoán. Khi đó cầu chứng khoán tăng sẽ tác động làm tăng giá chứng khoán. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hoạt động không vượt trội thì giá sẽ trở về mức trước khi tăng.

Khi nhìn từ góc độ cổ đông, giá trị tài sản của mỗi cổ đông cũng không hề tăng lên, mặc dù số lượng cổ phiếu trong tài khoản của mình tăng lên. Việc doanh nghiệp công bố thưởng cổ phiếu cho cổ đông chính là dùng tài sản của cổ đông thưởng cho chính các cổ đông đó. Mà doanh nghiệp là của các cổ đông. Nên, nhìn từ góc độ này thì việc được chia cổ tức thưởng chẳng khác gì “tự thưởng”, bớt một phần tài sản của mình để thưởng lại cho mình.

Chính vì vậy, đối với những nhà đầu tư đang sở hữu cổ phiếu hay đang có dự định mua cổ phiếu, có thể căn cứ vào số cổ tức (tiền mặt) được trả để tính lãi suất hiện thời bằng cách lấy khoản này chia cho thị giá cổ phiếu. Đây được coi là một trong những tiêu chí cho các Nhà đầu tư chọn cổ phiếu. Nó là một tham số tương đối (tính bằng %) giúp nhà đầu tư thực hiện các so sánh tương đối, dự liệu được mức thu nhập bọc lót… để ra quyết định đầu tư đúng đắn và chính xác.