Chủ tịch Hồ Chí Minh với văn hóa, văn nghệ

Chủ tịch Hồ Chí Minh được thế giới vinh danh là Nhà văn hóa kiệt xuất. Tư tưởng của Người là kho tàng lý luận toàn diện, sâu sắc về cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong đó Người đánh giá rất cao vai trò của văn hóa – văn nghệ.

Trong tư tưởng của Người, văn hoá được đề cập đến hết sức bình dị mà sâu sắc:“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.  Với định nghĩa này, Hồ Chí Minh đã khắc phục được quan niệm phiến diện về văn hóa trong lịch sử và hiện tại, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực tinh thần trong văn học – nghệ thuật, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực giáo dục phản ánh trình độ học vấn. Như vậy, ngay từ rất sớm HCM đã quan tâm đến văn hóa, đã thấy được vai trò, vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội và đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước. Với tinh thần đó, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, năm 1941 trở về Tổ quốc, mặc dù bận rộn rất nhiều công việc chuẩn bị cho cách mạng giải phóng dân tộc, nhưng Người vẫn giành tâm trí thiết kế một nền văn hóa mới. Đó là nền văn hóa cách mạng, một nền văn hóa “Kháng chiến, Kiến quốc”. Người đã cùng với Đảng ta lãnh đạo toàn dân tiến hành cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đưa cách mạng văn hóa lên đỉnh cao – văn hóa của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Có thể khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người đặt cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam. Người tạo ra một cách nhìn mới, một thế giới quan mới, tạo lập một ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật, ý thức nghệ thuật mới… chưa từng có trong lịch sử văn hóa Việt Nam nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, đập tan văn hóa nô dịch của thực dân Pháp và tàn dư phong kiến, xây mới những giá trị văn hóa cách mạng. Sau khi giành chính quyền, Người phát động phong trào đời sống mới, xây dựng và phát triển những thuần phong, mỹ tục mới, mở ngay chiến dịch chống giặc dốt. Người coi dốt nát cũng là một thứ giặc, xem thói quen và những truyền thống lạc hậu cũng là một loại kẻ thù. Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”… “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta… phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của văn hoá – văn nghệ đối với công tác tư tưởng. Văn hoá có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng con người; hoạt động văn hoá – văn nghệ được xem là “binh chủng đặc biệt”, có sức mạnh độc đáo với cách thức riêng (bằng các sản phẩm văn hoá – văn nghệ) có khả năng tác động vào tâm hồn, tình cảm, cảm xúc con người, trực tiếp nuôi dưỡng, đào tạo con người mới, nhân cách kiểu mới với những phẩm chất cao đẹp, phát triển toàn diện về trí, đức, thể mỹ. Chính vì vậy, Người thường xuyên quan tâm đến bồi dưỡng lý tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đưa văn hóa đi sâu vào quần chúng, tác động như một sức mạnh vật chất, biến đổi phong hóa, cải tạo con người.

Khẳng định vị trí, vai trò của văn hoá – văn nghệ đối với kinh tế và chính trị, Bác viết: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá”. Theo Người bốn vấn đề đó có mối quan hệ mật thiết với nhau, cùng tác động lẫn nhau.

Trên lĩnh vực chính trị, Người nói: “Văn hoá có liên lạc với chính trị rất mật thiết. Phải làm thế nào cho văn hoá vào sâu trong tâm lý quốc dân, nghĩa là phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Ðồng thời, văn hóa phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng mình. Ðối với xã hội, văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người Việt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình nên được hưởng”, “Xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hoá của ta vì thế không nảy sinh được”, “Chính trị có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hoá phát triển”.

Người chỉ ra nguyên nhân kém hiệu quả kinh tế là do trình độ văn hóa của cán bộ và nhân dân còn thấp. Vì vậy, muốn phát triển kinh tế, xây dựng nước nhà thì trước hết phải nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân:“Trình độ văn hoá của nhân dân cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ… cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh ”. Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII khẳng định: “Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến vai trò của nghệ sĩ “Văn hoá, nghệ thuật là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Người cho rằng văn hoá – văn nghệ là công cụ sắc bén trong đấu tranh cách mạng, là một mặt trận và người làm văn hoá, văn nghệ là chiến sĩ cách mạng trên mặt trận ấy. Quan niệm này đã đặt những người hoạt động văn hoá – văn nghệ lên tầm cao mới trong sự nghiệp cách mạng, đòi hỏi văn hoá nghệ thuật vừa phải khẳng định bản chất nghệ thuật, chức năng thẩm mỹ vươn tới cái đẹp nhưng vừa phải mang tính chiến đấu. Người nói: “Để làm tròn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn, phải thực sự hoà mình với quần chúng cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp, phải hết lòng giúp đỡ thanh niên”.

Bản thân Hồ Chí Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo cách mạng vĩ đại. Thơ Hồ Chí Minh có bài viết bằng tiếng Việt, có bài viết bằng chữ Hán, song không bài thơ nào vắng bóng con người. Là người mở đầu và đặt nền móng cho nền văn xuôi cách mạng Việt Nam, Người đã tìm tòi và viết nhiều thể loại: tiểu thuyết du ký, truyện viễn tưởng, truyện ngắn, thư từ, ký, kịch, tiểu phẩm, văn chính luận. Người còn là bậc thầy của báo chí cách mạng Việt Nam; là người sáng lập và là linh hồn của nhiều tờ báo cách mạng đầu tiên ở nước ta. Những bài báo ngắn gọn của Người đã góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, lên án chủ nghĩa thực dân, chỉ đạo phong trào cách mạng ở thuộc địa. Tất cả những gì Người viết đều rất chân thực, giản dị, tự nhiên phản ánh vẻ đẹp cao quý trong đạo đức, trí tuệ và tâm hồn của một nhân cách lỗi lạc. Nhân cách, tư tưởng đó của Người đã tác động mạnh mẽ, ảnh hưởng lớn đến đội ngũ văn – nghệ sĩ trong bối cảnh đó. Học tập tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều tầng lớp văn, nghệ sĩ đã xung phong ra chiến trận, trở thành các chiến sĩ văn hóa, dùng ngòi bút làm vũ khí đấu tranh và đã có nhiều đồng chí hi sinh anh dũng trong các mặt trận như nhà văn Nam Cao, Trần Đăng, Trần Mai Ninh…

Từ trong ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa văn nghệ, Đảng ta đã ra nhiều chỉ thị, nghị quyết về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và kế thừa, bổ sung và làm phong phú tư tưởng Người. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII “về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” coi văn hóa “là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”.  Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”. Hội nghị TW 9 khóa XI (năm 2011) ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” với mục tiêu “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII vừa qua tiếp tục khẳng định: “quá trình phát triển đất nước phải gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế – xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.

Sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc do Đảng lãnh đạo, toàn dân tham gia trong những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế. Đời sống văn hóa của đại đa số nhân dân đã được cải thiện đáng kể nhưng mức độ hưởng thụ văn hóa đang có sự chênh lệch ngày càng cao giữa thành thị và nông thôn, đặc biệt là giữa thành thị với miền núi. Phong trào“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đạt được nhiều kết quả, nhưng chưa có chiều sâu, nhiều nơi còn nặng về hình thức, phong trào chưa thực sự phát huy được sức mạnh của toàn dân, của các cấp các ngành. Lĩnh vực Văn học – nghệ thuật, điện ảnh phát triển sôi động với nhiều thể loại, tác phẩm theo phong cách mới, có tính hiện đại, sáng tạo nhưng mang tính thương mại hóa, lai căng, chạy theo thị hiếu và chưa có được nhiều tác phẩm đi vào chiều sâu, thực sự đáp ứng nguyện vọng của công chúng. Công tác thi hành pháp luật, bảo vệ văn hóa chưa được thực hiện nghiêm minh, trình độ cán bộ văn hóa chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, với các cấp chính quyền địa phương. Bên cạnh đó, tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng; sự du nhập của các xu hướng lai căng, Tây hóa… làm mai một, đảo lộn các giá trị văn hóa truyền thống ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc, làm giảm mức hưởng thụ và năng lực sáng tạo văn hóa của quần chúng.

Thực tiễn đó, đòi hỏi chúng ta càng phải nghiêm túc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là trên lĩnh vực văn hóa – văn nghệ, nhằm chấn hưng nền văn hóa – văn nghệ nước nhà, góp phần quan trọng vào thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và thực hiện thành công Đại hội XIII./.

Nguyễn Thị Kim Chi 

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy