Cây mía

Cây mía

>>Hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc và bón phân cho cây mía

I. ĐẶC TÍNH

1. Đặc tính thực vật học

Cây mía có tên khoa học là Saccharum ssp. Thuộc họ Graminaea (họ Hoà Thảo).

– Thân mía: Ở cây mía, thân là đối tượng thu hoạch, là nơi dự trữ đường được dùng làm nguyên liệu chính để chế biến đường ăn.

Thân cây mía cao trung bình 2-3 m, một số giống có thể cao 4-5m. Thân mía được hình thành bởi nhiều dóng (đốt) hợp lại. Chiều dài mỗi dóng từ 15-20 cm, trên mỗi dóng gồm có mắt mía (mắt mầm), đai sinh trưởng, đai rễ, sẹo lá…

Thân mía có màu vàng, đỏ hồng hoặc đỏ tím. Tuỳ theo từng giống mà dóng mía có nhiều hình dạng khác nhau như: Hình trụ, hình trống, hình ống chỉ… Thân đơn độc, không có cành nhánh, trừ một số trường hợp bị sâu bệnh.

–  Rễ mía: Cây mía có 2 loại rễ là rễ sơ sinh và rễ thứ sinh.

Rễ mía   

+ Rễ sơ sinh mọc ra từ đai rễ của hom trồng, có nhiệm vụ hút nước trong đất để giúp mầm mía mọc và sinh trưởng trong giai đoạn đầu (rễ tạm thời). Khi mầm mía phát triển thành cây con, thì các rễ thứ sinh mọc ra từ đai rễ của gốc cây con, giúp cây hút nước và chất dinh dưỡng. Lúc này các rễ sơ sinh teo dần và chết, cây mía sống nhờ vào rễ thứ sinh và không nhờ vào chất dinh dưỡng dự trữ trong hôm mía nữa.

+ Rễ thứ sinh là rễ chính của cây mía, bám vào đất để giữ cho cây mía không bị đỗ ngã, đồng thời hút nước và chất dinh dưỡng nuôi cây trong suốt chu kỳ sinh trưởng (rễ vĩnh cữu). Rễ mía thuộc loại rễ chùm, ăn nông, tập trung ở tầng đất mặt 30-40cm, rộng 40-60 cm.

–  Lá mía: Cây mía có bộ lá phát triển mạnh, chỉ số diện tích lá lớn và hiệu suất quang hợp cao, giúp cây tổng hợp một lượng đường rất lớn. Lá mía thuộc loại lá đơn gồm phiến lá và bẹ lá. Phiến lá dài trung bình từ 1,0-1,5m có một gân chính tương đối lớn. Phiến lá có màu xanh thẩm, mặt trên có nhiều lông nhỏ và cứng, hai bên mép có gai nhỏ. Bẹ lá rộng, ôm kín thân mía,có nhiều lông. Nối giữa bẹ và phiến lá là đai dày cổ lá. Ngoài ra còn có lá thìa , tai lá… Các đặc điểm của lá cũng khác nhau tuỳ vào giống mía.

– Hoa và hạt mía:

+ Hoa mía (còn gọi là bông cờ): Mọc thành chùm dài từ điểm sinh trưởng trên cùng của thân khi cây mía chuyển sang giai đoạn sinh thực. Mỗi hoa có hình chiếc quạt mở, gồm cả nhị đực và nhụy cái, khả năng tự thụ rất cao. Cây mía có giống ra hoa nhiều, có giống ra hoa ít hoặc không ra hoa. Khi ra hoa cây mía bị rỗng ruột làm giảm năng suất và hàm lượng đường. Trong sản suất người ta thường không thích trồng các giống mía ra hoa và tìm cách hạn chế ra hoa.

+ Hạt mía: Hình thành từ bầu nhụy cái được thụ tinh trông như một chiếc váy nhỏ, hình thoi và nhẵn, dài khoảng 1-1,2mm. Trong hạt có phôi và có thể nảy mầm thành cây mía con, dùng trong công tác lai tạo tuyển chọn giống, không dùng trong sản xuất. Cây mía từ khi nảy mầm đến thu hoạch kéo dài trong khoảng 8-10 tháng tuỳ điều kiện thời tiết và giống mía.

2.  Yêu cầu điều kiện sinh thái

 a. Khí hậu:

– Nhiệt độ: Thích hợp trong phạm vi 20-25OC. Nhiệt độ cao quá hoặc thấp quá ảnh hưởng đến sinh trưởng bình thường và giảm tốc độ quang hợp. Thời kỳ đầu, từ khi đặt hom đến mọc mầm thành cây con, nhiệt độ thích hợp từ 20-25OC.Thời kỳ đẻ nhánh (cây có 6-9 lá), nhiệt độ thích hợp 20-30OC.Ở thời kỳ mía làm dóng vươn cao, yêu cầu nhiệt độ cao hơn để tăng cường quang hợp, tốt nhất là 30-32OC.

–   Ánh sáng: Rất cần cho sự quang hợp để tạo đường cho cây mía. Khi cường độ ánh sáng tăng thì hoạt động quang hợp của bộ lá cũng tăng. Thiếu ánh sáng cây mía phát triển yếu, vóng cây, hàm lượng đường thấp và cây mía dễ bị sâu bệnh. Trong suốt chu kỳ sinh trưởng, cây mía cần khoảng 2.000 – 3.000 giờ chiếu sáng, tối thiểu cũng 1.200 giờ trở lên.

– Lượng nước và ẩm độ đất: Đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng và phát triển của cây mía. Trong thân cây mía chứa nhiều nước (70% khối lượng). Lượng mưa thích hợp 1.500 – 2.000 mm/năm, phân bố trong khoảng thời gian từ 8-10 tháng, từ khi cây mía mọc mầm đến thu hoạch. Cây mía là loài cây trồng cạn, có bộ rễ ăn nông nên rất cần nước nhưng không chịu ngập úng. Ở vùng đồi gò đất cao cần tưới nước trong mùa khô. Nhơi đất thấp cần thoát nước tốt trong mùa mưa. Thời kỳ cây mía làm dóng vương cao rất cần nhiều nước, ẩm độ thích hợp khoảng 70-80%, ở các thời kỳ khác cần ẩm độ 65-70%.

b. Đất: Cây mía thích hợp ở loại đất tơi xốp, tầng đất mặt sâu, giữ ẩm tốt và dễ thoát nước. Độ pH thích hợp 5,5-7,5. Các loại đất như sét nặng, chua, mặn, bị ngập úng hoặc thoát nước kém… đều không thích hợp cho cây mía sinh trưởng và phát triển. Thực tế cho thấy, ở nước ta, cây mía được trồng trên nhiều loại đất khác nhau như đất chua phèn ở đồng bằng Sông Cữu Long, đất đồi gò ở trung du Bắc Bộ, Nam Trung Bộ, Đông Nam bộ. Tuy nhiên ở những vùng này ruộng trồng mía cần đạt những yêu cầu cơ bản, nhất là độ sâu tầng đất mặt và thoát nước. Nếu đất nghèo dinh dưỡng hoặc chua phèn thì cần bón phân đầy đủ và có biện pháp cải tạo đất.

3.  Yêu cầu chất dinh dưỡng

Mía là cây trồng có khả năng tạo ra lượng sinh khối rất lớn, chỉ trong vòng chưa đầy 1 năm, 1 hecta mía có thể cho từ 70-100 tấn mía cây, chưa kể lá và rễ. Vì vậy nhu cầu dinh dưỡng của cây mía rất lớn. Ngoài các chất đa lượng NPK, cây mía rất cần canxi (Ca) và các chất vi lượng.

– Đạm (N): Là yếu tố rất quan trọng giúp cây mọc khoẻ, đâm nhiều nhánh, tốc độ làm dóng và vươn cao nhanh, năng suất cao. Trung bình 1 tấn mía tơ cần 1 kg N và một tấn mía để gốc cần 1.25 kg N. Ở giai đoạn đầu cây mía rất cần N, lượng N dự trữ trong cây mía ở giai đoạn đầu có ảnh hưởng đến suốt quá trình sinh trưởng và phát triển về sau. Tuy nhiên nếu bón nhiều đạm và không cân đối với lân, kali và bón muộn cây mía sẽ bị vóng, nhiều nước, lượng đường thấp và dễ nhiễm sâu bệnh.

–  Lân (P): Lân giúp bộ rễ phát triển để hấp thu nước và chất dinh dưỡng, tăng khả năng chịu hạn, giữ sự cân đối giữa đạm và kali nên giúp cây phát triển khoẻ mạnh, tăng năng suất và chất lượng mía. Đối với công nghiệp chế biến đường, bón đủ lân sẽ giúp quá trình lắng trong nước mía và kết tinh đường được thuận lợi.Thiếu lân, bộ rễ phát triển kém, đẻ nhánh ít, thân lá nhỏ, cây cằn cỗi. Phần lớn đất trồng mía ở nước ta đều thiếu lân, nhất là vùng Đông Nam Bộ và Trung Du Phía bắc, do đó chú ý bón lân đầy đủ. Để có một tấn mía cây cần bón thêm 1,3 kg P2O5 .

–  Kali (K): Là nguyên tố dinh dưỡng cây cần nhiều nhất. Để tạo ra một tấn mía cây cần 2,75 K2O. Kali có vai trò quan trọng trong quá trình tổng hợp tạo ra đường. Đủ kali, cây mía cứng cáp, không đổ ngã, ít sâu bệnh, chín sớm và tăng tỉ lệ đường.

– Canxi (Ca): Canxi làm giảm độ chua trong đất, cải thiện tính chất vật lý đất, giúp sự phân giải chất hữu cơ và hoạt động của các vi sinh vật đất được tốt hơn, tạo điều kiện cho cây mía hấp thu chất dinh dưỡng hiệu quả hơn. Các vùng đất trồng mía của nước ta thường chua nên cần phải bón thêm vôi.

– Các chất vi lượng: Bao gồm các nguyên tố như magiê (Mg), sắt (Fe), mangan (Mn), kẽm (Zn), đồng (Cu)… tuy cần ở số lượng ít nhưng rất quan trọng đối với quá trình sinh trưởng và phát triển cũng như chất lượng của cây mía. Đất ở nước ta do trồng lâu đời lại không chú ý bón bổ sung chất vi lượng nên thường bị thiếu. Nhiều thí nghiệm ở một số vùng cho thấy, nếu bón bổ sung các chất vi lượng đều có tác dung tăng năng suất và chất lượng mía rõ rệt.

II. GIỐNG VÀ NHÂN GIỐNG

1. Giống mía

Một giống mía tốt là giống cho năng suất cao, hàm lượng đường nhiều, thích hợp với điều kiện trồng trọt và chế biến của từng vùng. Yêu cầu này thể hiện ở các tiêu chuẩn chung là năng suất cao, tốc độ sinh trưởng nhanh, tỉ lệ đường cao, chống chịu sâu bệnh, thích hợp điều kiện sinh thái và đất đai của từng vùng, để gốc tốt, không hoặc ít ra hoa, thích hợp với điều kiện chế biến của mỗi nơi.Sau đây là một số giống đã đước Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn cho phép sử dụng trong sản xuất ở nước ta.

Một số giống mía

–  Giống Comus: Được nhập nội từ Úc, hiện trồng chủ yếu ở các tỉnh Tây Nam Bộ. Giống này thích hợp vùng đất thấp, chín sớm (10-11 tháng), ra hoa muộn, tỉ lệ ra hoa ít. Năng suất cao (80-100 tấn mía cây/ha). Tỷ lệ đường khá cao, thân mềm thuận lợi trong chế biến.Nhược điểm của giống này là chịu hạn kém và dễ nhiễm sâu bệnh.

–  Giống F.156: Nhập nội từ Đài Loan, hiện trồng phổ biến ở các tỉnh Đông Nam Bộ và Miền Bắc. Có thể trồng trên nhiều loại đất, chịu hạn và chịu phèn. Thời gian chín trung bình 11-12 tháng, ra hoa muộn và tỉ lệ ra hoa thấp (10-15%). Năng suất cao (80-100 tấn/ha). Kháng bệnh tốt nhưng dễ nhiễm sâu đục thân.

–  Giống MY-5514: Nhập nội từ Cuba, hiện trồng phổ biến ở Đông Nam Bộ và Miền Bắc. Tốc độ tăng trưởng nhanh, thời gian chín trung bình đến muộn. Ở Miền Nam ra hoa nhiều, ở Miền Bắc ít hoặc không ra hoa. Năng suất cao (trên 100 tấn/ha), tỉ lệ đường khá, kháng sâu bệnh tốt.

–  Giống Ja 60-5: Nhập nội từ Cuba, hiện trồng phổ biến ở Đông Nam Bộ và Miền Bắc. Chin sớm, ra hoa ít hoặc không ra hoa. Năng suất cao (70-100 tấn/ha), tỉ lệ đường rất cao. Để mía gốc tốt, tương đối kháng sâu bệnh.

–  Giống ROC 16: Nhập nội từ Đài Loan, được trồng ở các vùng. Tốc độ tăng truởng nhanh. Chín trung bình, để gốc tốt, năng suất cao, kháng sâu bệnh.Ngoài ra còn một số giống khá phổ biến như: ROC 10, ROC 20, ROC 22, F.134, F.154, QĐ 15, QĐ 86-368…

2. Nhân giống

Cây mía trồng bằng hom (nhân giống vô tính). Khi thu hoạch, người ta lấy thân làm nguyên liệu chế biến đường còn phần ngọn có 2-3 mắt dùng làm hom giống. Ngọn mía ít đường nhưng mọc mầm rất khoẻ, dùng làm hom giống rất tốt. Nhưng nhược điểm nếu chỉ lấy ngọn thì số hom ít, hệ số nhân giống thấp, chất lượng hom gióng không đồng đều và thường nhiễm sâu bệnh, thường chỉ dùng cho diện tích ít. Để khắc phục các nhược điểm trên phải làm ruộng nhân giống riêng.

–  Làm ruộng nhân giống: Làm ruộng nhân giống riêng có ưu điểm là cho nhiều hom giống, hệ số nhân giống có thể 5-6 lần. Ngoài ra còn tạo ra hom giống đồng điều có chất lượng cao, kiểm soát đuợc sâu bệnh. Ở Nam bộ, ruộng nhân giống được trồng vào đầu mùa mưa (tháng 4-5) hoặc cuối mùa mưa (tháng 11-12). Khi cây mía được 6-8 tháng tuổi thì dùng cả cây làm hôm giống. Như vây 1 năm có thể làm 2 vụ giống mía, nâng hệ số nhân giống lên 10-12 lần.Ruộng nhân giống được trồng ở mật độ tương đối dày, khoảng cách hàng 0.8-1.0 m và phải được chăm sóc tốt, sạch sâu bệnh. Bón đạm vừa phải, tăng lượng lân và kali, thường xuyên làm sạch cỏ, bóc các lá già và phun thuốc phòng trừ sâu bệnh. Cây giống sau khi bỏ phần lá ngọn, tất cả được chặt thành từng đoạn hom, mỗi hom có 2-3 mắt mầm.- Cấy mô đơn bội:  Có thể sử dụng phương pháp cấy mô đơn bội để nhân nhanh giống mía với số lượng lớn. Tuy nhiên phương pháp cấy mô đòi hỏi phải có phòng thí nghiệm, có thiết bị và nhân viên kỹ thuật có kinh nghiệm, chi phí tốn kém. Ở nước ta phương pháp nhân giống này chưa áp dung trong sản suất.

III. TRỒNG VÀ CHĂM SÓC

1.  Chuẩn bị đất

Đất trồng mía yêu cầu phải bằng phẳng, tơi xốp, sạch cỏ, giữ ẩm tốt vào mùa khô và thoát nước tốt vào mùa mưa. Để đạt các yêu cầu trên cần tiến hành các công việc cày, bừa, san phẳng đất và rạch hàng đặt hom.

– Đối với đất trồng mới: Ở vùng đất cao như Đông Nam Bộ và một số vùng khác, cần phải cày ủi, bứng hết gốc cây, sau đó cày bừa kỹ kết hợp san lấp bằng phẳng và rạch hàng đặt hom. Với vùng đất dóc thì hàng mía phải vuông gốc với hướng dốc để hạn chế xói mòn. Ở miền Tây Nam Bộ và các vùng đất thấp, cần phải lên líp để nâng cao mặt ruộng. Mặt líp rộng 4-6m, rãnh giữa các liếp rộng 1,0-1,5 , đủ đất để nâng mặt liếp lên 40-50 cm. Chú ý, khi lên liếp không đưa tầng đất phèn lên mặt ruộng tránh gây hại cây sau này. Sau khi lên liếp không nên trồng ngay mà phải để ít nhất qua một mùa mưa để rữa phèn, tốt nhất nên trồng 1-2 vụ đậu trước khi trồng mía. Trước khi trồng mặt liếp phải được cày sâu 20-25 cm, bừa cho tơi xốp, sạch cỏ dại rồi rạch hàng đặt hom.

–  Đối với đất đã trồng trọt: Thu gom hoặc cày vùi xác bã của cây trồng trước, Sau đó tiến hành cày bừa, san phẳng trước khi rạch hàng.

–  Đối với đất phá gốc mía trồng lại: Cày hoặc cuốc hết gốc mía cũ, để một thời gian cho gốc cũ khô chết hoàn toàn (khoảng 3-4 tuần), sau đó cày bừa trồng mới.

2. Thời vụ trồng

Thời vụ trồng mía thích hợp với điều kiện khí hậu của từng vùng và đặc điểm của từng giống mía.

– Miền Bắc: Có 2 vụ trồng chính là vụ đông xuân và vụ thu. Vụ đông xuân trồng từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, thu hoạch khi mía được 10-12 tháng tuổi. Đây là vụ chính hàng năm, tránh trồng khi thời tiết quá lạnh (khoảng tháng 1), vì trời rét mía mọc mầm rất kém. Vụ thu trồng tháng 9, thu hoạch sau 13-15 tháng. Do thời gian sinh trưởng kéo dài nên năng suất mía thường rất cao. Nhược điểm là khi cây lớn (khoảng 10-12 tháng tuổi) trùng với thời điểm mưa bão nhiều nên dễ bị đổ ngả. Nên chọn những giống cứng cây, chóng chịu với gió bão tốt để trồng vụ này.

–  Duyên hải Miền Trung: Có thể trồng vụ đông xuân và vụ thu. Vụ đông xuân có thể kéo dài đến tháng 4-5. Vụ thu bắt đầu trồng vào đầu mùa mưa (tháng 8-9), cây mía mọc mầm và sinh trưởng mạnh, năng xuất cao và tránh được sự trổ cờ ở một số giống.

– Tây Nguyên: Thời vụ trồng chủ yếu là đầu mùa mưa (từ tháng 4- 6), thu hoạch 8-10 tháng tuổi. Những nơi chủ động được nước tưới có thể trồng từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, cây mía sẽ cho năng suất cao hơn do thời gian sinh trưởng dài hơn.

– Đông Nam Bộ: Do đặc điểm vùng này là vùng đất cao, có mùa khô dài đến 5-6 tháng, giải quyết nước tưới trong mùa khô tương đối khó khăn do đó thời vụ trồng mía ở vùng này là phải tận dụng tuyệt đối lượng nước vào đầu mùa mưa và cuối mùa mưa.Vụ đầu mùa mưa trồng vào tháng 5-6, thu hoạch khoảng 10-12 tháng sau trồng. Trồng vụ này, khi có mưa, đất đủ ẩm, mầm mía mọc nhanh, đẻ nhánh mạnh, sinh trưởng tốt, cho năng suất cao. Tuy vậy nếu gặp năm mưa muộn, nếu không chủ động được nước tưới thì tỉ lệ nảy mầm kém và mầm mía mọc yếu ớt.Vụ cuối mùa mưa, trồng khoảng tháng 10-11, thu hoạch sau 12-15 tháng do đó năng suất mía và tỉ lệ đường cao hơn vụ đầu mùa mưa. Do phải trải qua một mùa khô dài nên cần phải chọn những giống chịu hạn tốt. Khi trồng phải chú ý đến ẩm độ đất, nếu đất thiếu ẩm tỉ lệ nảy mầm kém và cây con sinh trưởng yếu. Một số nơi đất thấp, có nguồn nước tưới thì có thể trồng tháng 12 đến tháng 2 năm sau.

–         Vùng Tây Nam Bộ: Đây là vùng đất thấp, hàng năm có lũ ngập vào háng 9-10. Một số nơi đất bị chua phèn và nhiễm mặn. Thời vụ trồng phổ biến ở đây là vào đầu mùa mưa (khoảng tháng 4-6), thu hoạch sau 10-12 tháng. Thời điểm thu hoạch vào mùa khô nên rất thuận tiện, sau thu hoạch có thời gian làm đất bỏ ải để trồng lại vụ sau.Ở vùng ngập lũ hàng năm thường trồng ngay sau khi nước rút, khoảng tháng 11-12, thu hoạch mía sau 8-10 tháng trước khi nước lũ năm sau tràn về. Trồng mía ở vụ này cần chú ý chống hạn cho cây mía ở giai đoạn còn nhỏ và hạn chế xì phèn lên lớp đất mặt. Nếu đảm bảo các điều kiện trên thì năng suất mía và tỉ lệ đường khá cao.

3. Chuẩn bị hom giống

Có thể dùng hom ngọn hoặc hom thân và nên chọn hom có mắt mầm không quá già, tốt nhất là nên dùng hom ở ruộng nhân giống hoặc ở ruộng mía tốt khoảng 7-8 tháng tuổi. Hom giống phải đảm bảo không bị lẫn tạp giống khác và phải sạch sâu bệnh.Hom giống sau khi thu hoạch phải trồng ngay, nếu để lâu chất lượng sẽ giảm, hom càng tươi trồng càng tốt.Trong một số trường hợp hom mía cần phải được xử lý trước khi trồng. Một số giống có đặc tính mọc mầm chậm hoặc khi trồng gặp thới tiết lạnh có thể phải ủ một thời gian hoặc xử lý hoá chất để mọc mầm nhanh hơn. Ở các vùng thường hay nhiễm một số bệnh quan trọng như phấn đen, phấn trắng, thối nõn, nên xử lý dung dịch benomyl 0,2% trong khoảng thời gian 20-30 phút hoặc ngâm hom trong nước nóng 52OC.

4. Khoảng cách và mật độ trồng

Cần chọn khoảng cách và mật độ trồng thích hợp để cây mía đạt năng suất và chất lượng đường tới ưu nhất. Mật độ trồng có thể phụ thuộc vào các yếu tố như giống mía, điều kiện khí hậu, đất đai và tập quán canh tác. Ở các tỉnh Nam Bộ, do mùa khô kéo dài, điều kiện tưới khó khăn nên khoảng cách hàng trồng thường hẹp để tận dụng đất, giúp cây mía chịu hạn tốt hơn. Tuy nhiên nếu điều kiện chăm sóc bằng cơ giới thì khoảng cách hàng phải thưa hơn.Ở Miền Bắc, Miền Trung và một số nơi ở Tây Nam Bộ, do phải vun luống để chống đổ ngả vào mùa mưa bão và tạo rãnh để thoát nước nên khoảng cách trồng thưa hơn. Khoảng cách và mật độ trồng thường được áp dụng ở các vùng là:+ Khoảng cách hàng 1.0-1,2 m (34.000 hom/ha) + Khoảng cách hàng 1.3-1.4 m (30.000 – 32.000 hom/ha).+ Khoảng cách hàng dưới 1 m (38.000 – 40.000 hom/ha).

5.  Cách trồng

–  Rạch hàng: Căn cứ vào khoảng cách hàng đã định để rạch hàng đặt hom. Độ sâu của hàng có thể khác nhau tỳ theo tầng canh tác và điều kiện sản xuất cụ thể. Ở vùng đất cao, khô hạng cần trồng sâu. Vùng đất thấp, chua phèn thì trồng cạn hơn. Độ sâu rạch hàng thường biến động trong khoảng 15-30 cm.

–   Bón lót: Trước khi đặt hom cần bón lót vào rãnh toàn bộ lượng phân hữu cơ, toàn bộ phân lân (P), một phần phân đạm (N) và một phần kali (K). Cần bón thêm một số thuốc trừ sâu dạng hạt như Diaphos, Furadan… để phòng sâu đục thân và mối.

–  Đặt hom: Sau khi hoàn tất công việc rạch hàng, bón lót phân thì tiến hành đặt hom giống. Có nhiều kiểu đặt hom khác nhau:

+ Đặt 1 hàng nối tiếp nhau.

+ Đặt 2 hàng cặp đôi.+ Đặt 2 hàng so le (kiểu nanh sấu).

+ Đặt hom xiên kiểu xương cá. Nếu chất lượng hom giống tốt, đất đủ ẩm thì nên đặt hom theo kiểu 1 hàng nối tiếp hoặc kiểu 2 hàng so le để tiết kiệm hom giống.Chú ý, khi đặt hom, mắt mầm phải nằm hai bên hom để mọc mầm dễ hơn. Cần chuẩn bị một số hom giâm sẵn để trồng dậm nếu thấy cần thiết.

– Lấp đất: Đây là một trong những công đoạn không kém phần quan trọng, ảnh hưởng đến tỉ lệ nảy mầm và mật độ cây mía sau trồng. Đặt hom đến đâu phải lấp đất ngay đến đó, không để hom phơi lâu trên ruộng. Đất lấp kín hom với độ dày vừa phải (khoảng 3-5 cm). Ở vùng đất cao, nếu trồng vào cuối mùa mưa (tháng 11-12) cần phải lấp đất sâu hơn và phải nén chặt để hom tiếp xúc với đất, như vậy hom mía không bị chết khô.

6.Tưới nước, trồng xen

Đối với cây mía nếu giải quyết được nước tưới trong mùa khô hạn thì năng suất mía cây và tỉ lệ đường sẽ tăng lên đáng kể. Đối với vụ trồng vào cuối mùa mưa, sau khi đặt hom cần phải tưới để hom mọc mầm tốt hơn và không bị khô hom. Ở thời kỳ cây mía còn nhỏ, nếu gặp nắng hạn thì cũng cần phải tưới. Ở thời kỳ cây mía lớn, nhu cầu sử dụng nước là rất lớn, do bộ rễ đã phát triển nên khả năng chịu hạn tốt hơn nhưng nếu được tưới nước đầy đủ vào mùa khô hạn thì cây mía sẽ sinh trưởng và phát triển rất tốt. Số lần tưới và lượng nước tưới tuỳ theo mức độ khô hạn và điều kiện cung cấp nước. Phương pháp tưới tốt nhất là nên tưới tràn lên mặt ruộng hoặc dẫn nước vào rãnh. Vào mùa mưa nên chú ý đến vấn đề thoát nước cho ruộng mía.Ở giai đoạn sau trồng, khi cây mía còn nhỏ, nên trồng xen các loại cây ngắn ngày nhất là cây họ đậu để giữ ẩm cho đất, hạn chế cỏ dại và tăng độ màu mỡ cho đất.  

7. Bón phân

Khả năng cho lượng sinh khối lớn nên cây mía cần nhiều chất dinh dưỡng. Ở giai đoạn nảy mầm, cây con sử dụng chất dinh dưỡng dự trữ trong hom mía. Khi rễ thứ sinh phát triển, cây hút chất dinh dưỡng từ đất và nhu cầu ngày càng tăng. Khi cây mía bắt đầu làm dóng vươn cao là giai đoạn cần nhiều chất dinh dưỡng nhất. Phân bón cho mía bao gồm phân hữu cơ, phân vô cơ, phân vi sinh và phân vi lượng. Nếu bón phân đầy đủ và cân đối, cây mía sinh trưởng tốt, cho năng suất cây và hàm lượng đường cao, hạn chế được sâu bệnh hại và rất thuận lợi cho việc chế biến đường ở các nhà máy.

–  Phân hữu cơ: Đối với các vùng đất nghèo dinh dưỡng như vùng đất cát, đất đồi trung du, đất xám Đông Nam Bộ… thì việc bón phân hữu cơ là hết sức quan trọng. Ở các loại đất này, nếu bón nhiều phân vô cơ nhưng không bón phân hữu cơ thì năng suất mía cũng không cao.Lượng phân hữu cơ cần bón cho 1 ha mía là khoảng 10-20 tấn, có thể bón lót vào rãnh mía trước khi đặt hom hoặc rải đều lên mặt ruộng trước khi cày (hoặc bừa) lần cuối. Đối với mía gốc, sau khi thu hoạch phải cày xả hai bên hàng mía, rải phân và cày lấp đất lại.

–  Phân vô cơ: Lượng phân N-P-K cần bón cho 1 ha mía như sau: 

Loại phân
Đơn vị tính
Tổng số
Số lần bón

Bón lót
Lần 1
Lần 2

Phân đạm (N)
kg
150 – 180
50 – 60
50 -60
50 – 60

Phân lân (P2O5)
Kg
90 – 120
90 -120

Phân Kali (K2O)
kg
150 – 180
75 – 90
75 – 90

 

  Nếu quy ra các loại phân đơn để bón thì liều lượng bón như sau:

+ Phân Urê : Tổng lượng bón là 326 – 391 kg/ha.

+ Phân super lân  : Tổng lượng bón là 560 – 750 kg/ha.

+ Kali đỏ (KCl) : Tổng lượng bón là 250 – 300kg/ha.Các loại phân này được chia cho các lần bón như sau:

+ Bón lót: Trước khi đặt hom (trồng mới) hoặc sau khi thu hoạch (mía gốc)100 – 130 kg Urê + 560 – 750 kg Super lân + 125 – 150 kg Kali

+ Bón thúc lần 1: Giai đoạn mía bắt đầu đẻ nhánh100 – 130 kg Urê + 125 – 150 kg Kali

+ Bón thúc lần 2: Giai đoạn mía làm dóng vươn cao.100 – 130 kg Urê.Nên kết hợp bón phân với làm cỏ xới xáo, vun luống cao để vùi lấp phân.

–  Bón vôi: Hầu hết đất trồng mía ở nước ta đều có độ pH thấp (đất chua), nên cần bón vôi để cải tạo đất. Cần đo độ pH đất trước khi xác định lượng vôi cần bón cho mía. Trung bình nếu pH khoảng 4 – 5 thì lượng vôi cần bón là 500 – 1.000 kg/ha. Nên bón vôi trước khi trồng từ 3 – 4 tuần lễ kết hợp với việc cày phơi ải đất. Không nên bón vôi với số lượng lớn cho 1 lần mà nên chia ra bón nhiều năm liên tục đến khi đạt độ pH thích hợp.

– Phân vi lượng: Các dạng phân vi lượng rất cần cho sự sinh trưởng của cây mía bao gồm: Magiê (Mg), Lưu huỳnh (S), Sắt (Fe), Kẽm (Zn), Mangan (Mn)… Do qua nhiều năm trồng trọt nhưng không được bón bổ sung nên các nguyên tố vi lượng trong đất đã bị cạn kiệt và trở nên thiếu hụt, ảnh hưởng xấu đến quá trình sinh trưởng và phát triển cũng như chất lượng của cây mía. Nên trộn phân vi lượng với phân hữu cơ và phân vô cơ để bón hoặc hoà với nước để phun qua lá.Ngoài các dạng phân nêu trên, hiện nay các chất kích thích tăng trưởng cũng được dùng khá phổ biến, nhất là acid gibberellic (GA3). Dung dịch GA3 được phun qua lá khi cây mía bắt đầu vươn dóng, có thể phun 2-3 lần, mỗi lần cách nhau 20-30 ngày làm cho mía lớn nhanh, tăng chiều dài của lóng mía do đó làm tăng năng suất nhưng không ảnh hưởng chất lượng.

8. Trừ cỏ và chăm sóc

 Cỏ dại là đối tượng cạnh tranh ánh sáng, nước và dinh dưỡng với cây mía và là nơi ẩn náu của rất nhiều loại sâu bệnh gây hại. Cỏ dại còn gây trở ngại cho việc chăm sóc và thu hoạch mía. Nhiều tài liệu cho thấy nếu không trừ cỏ kịp thời thì năng suất mía có thể giảm 20-30%, thậm chí còn lớn hơn.Có rất nhiều loại cỏ gây hại cho mía như: Cỏ tranh, cỏ ống, cỏ chỉ, cỏ cú (cỏ gấu), mắc cở… Có thể dệt trừ bằng nhiều cách như nhổ bằng tay (khi mía còn nhỏ), cày, cuốc, máy móc hoặc thuốc hoá học. Trong đó biện pháp dùng thuốc hoá học để diệt cỏ cho mía là hiệu quả cao hơn cả, ngày càng được sử dụng rộng rãi. Có 2 loại thuốc trừ cỏ thông dung hiện nay là thuốc trừ cỏ tiền nảy mầm như Diuron, Ametrin, Atrazin, Simazin… (Phun ngay sau khi đặt hom mía hoặc khi mía đã mọc cao 40-60 cm) và thuốc trừ cỏ hậu nảy mầm như 2,4 D, paraquat… (phun lên ruộng có cỏ trước khi trồng mía, sau khi mía đã nảy mầm nếu có cỏ mọc). Mỗi loại thuốc chỉ diệt được một số loại cỏ nhất định, nên khi sử dụng cần xem xét thành phần cỏ chủ yếu có trong ruộng mía để chọn loại thuốc thích hợp.Nếu trừ cỏ bằng các biện pháp khác thì nên kết hợp bón phân, xới xáo và vun gốc cho mía. Trong suốt chu kỳ sinh trưởng của cây mía có các đợt chăm sóc như sau:

–  Đợt 1: Sau khi trồng từ 4-6 tuần lễ, cây mía có 5-7 lá và đang bước vào thời kỳ đẻ nhánh nên tiến hành làm cỏ, xới xáo phá váng, trồng dậm và bón thúc phân lần 1 để tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển và cây đẻ nhánh mạnh. Trong thời gian này, nếu đất gặp khô hạn thì cần phải tưới. Chú ý phòng trừ sâu đục thân.

–  Đợt 2: Khoảng 8-9 tuần lễ sau khi trồng, khi cây mía kết thúc giai đoạn đẻ nhánh chuyển sang thời kỳ làm dóng, vươn cao. Tiến hành làm cỏ và bón thúc phân lần 2 kết hợp với vét rãnh và vun cao gốc. Giai đoạn này các loài sâu bệnh cũng phát phát nhiều, nhất là sâu đục thân và rệp, cần phát hiện và phòng trừ kịp thời.

–  Đợt 3: Khi cây mía đã có 3-5 dóng, nếu ruộng mía có cỏ thì tiến hành làm lần cuối. Nếu cây mía phát triển kém thì có thể bón bổ sung thêm phân đạm (20-30 kg N/ha) kết hợp với vun sửa luống mía và phòng trừ sâu bệnh.

9.  Kỹ thuật để mía gốc

Gốc mía có khả năng tái sinh nảy chồi mạnh, lợi dụng đặt điểm này người ta giữ lại gốc để thu hoạch tiếp một số năm. Một ruộng mía tốt, đất đai thích hợp có thể để gốc cho thu hoạch từ 5-7 năm. Ở nước ta, trừ những vùng đất thấp thường bị ngập nước làm chết gốc, còn lại thường để gốc trung bình khoảng 2 năm. Chu kỳ kinh tế của ruộng mía thường là 1 vụ mía tơ + 2 vụ mía gốc.Để mía gốc có nhiều lợi ích như giảm được chi phí sản xuất 30% so với trồng mới (chi phí làm đất, hom giống và công trồng). Mía gốc đẻ nhánh nhiều, nếu được chăm sóc tốt thì năng suất mía cây và hàm lượng đường của mía gốc có thể cao hơn mía tơ. Theo điều tra của Viên Nghiên Cứu Mía Đường từ năm 1984-1986 tại Bến Lức (Long An) trên 5 giống mía được trồng phổ biến cho thấy năng suất trung bình của mía tơ là 48 tấn/ha, mía gốc vụ 1 là 58,8 tấn/ha.Ruộng mía được chọn để gốc phải đạt một số yêu cầu như sau: Giống mía phải có khả năng tái sinh mạnh, ruộng mía phải tốt và đồng đều, không bị mất quảng quá 20%, không bị nhiễm nặng các loại sâu bệnh quan trọng như rệp bông, bệnh than… Nên chọn thời điểm thu hoạch ruộng mía để gốc thích hợp, tránh tình trạng đang khô hạn nặng, bị ngập úng hoặc giá rét giúp gốc không bị chết và tái sinh thuận lợi. Sau khi thu hoạch xong cần tiến hành chăm sóc kịp thời tạo điều kiện cho ruộng mía tái sinh và phát triển mạnh.Công việc chăm sóc mía gốc bao gồm các khâu chính như sau:

–  Xử lý ruộng sau thu hoạch: Dùng dao sắc chặt gốc mía sát mặt đất, loại bỏ những gốc mía còn cao, những cây chết khô băm nhỏ rải giữa 2 hàng mía cho khô mục thành phân.

–  Cày hoặc cuốc xả 2 bên hàng gốc mía: Mục đích là chặt bớt rễ già cho ra nhiều rễ mới đồng thời loại bỏ những gốc mọc ra ngoài hàng mía.

–  Bón phân cho gốc mía theo hàng rãnh xả: Chủng loại và lượng phân tương đương với phân bón lót cho mía tơ. Rải xong phải vun đất lấp lại (vun gốc) cần chú ý đến ẩm độ của đất khi bón phân, nếu thiếu ẩm thì phải tưới bổ sung.

–  Trồng dậm những nơi mầm mía không mọc: Khi mầm gốc đã mọc đều, kiểm tra để trồng dậm những chổ mất quãng. Cây trồng dậm có thể giâm sẵn bằng hom ngọn khi thu hoạch. Các cây trồng dậm cũng phải bón phân lót đầy đủ.

–  Tiếp tục chăm sóc ruộng mía gốc ở các công đoạn kế tiếp theo trình tự giống ở mía tơ như làm cỏ, xới xáo và bón thúc phân kết hợp vun luống. Riêng phân đạm bón cho mía gốc phải nhiều hơn mía tơ từ 15-20%.  10.     Luân canh đất míaCứ sau 1-2 chu kỳ trồng mía (3-6 năm) nên luân canh 1-2 vụ cây trồng khác như lúa, khoai lang, khoai mì, cây họ đậu và các cây rau màu khác… tuỳ theo điều kiện đất đai và tập quán canh tác của từng nơi. Việc luân canh cây mía với cây trồng khác được coi là một biện pháp kỹ thuật quan trọng trong qui trình thâm canh tăng năng suất mía. Mục đích của việc luân canh là cải tạo lại độ phì nhiêu của đất, đồng thời cách ly và loại bỏ các nguồn sâu bệnh hại đã tích luỹ qua nhiều năm trồng mía liên tục.

Theo tài liệu:

– Trồng – chăm sóc & phòng trừ sâu bệnh CÂY MÍA của KS. Nguyễn Mạnh Trinh,  TS. Nguyễn Đăng Nghĩa – Nhà xuất bản nông nghiệp.