Biện pháp ngăn chặn là gì ? Ý nghĩa khi áp dụn biện pháp ngăn chặn là gì ?
Biện pháp ngăn chặn là một thuật ngữ pháp lý thường được dùng trong luật tố tụng hình sự (tố tụng dân sự). Vậy, khái niệm này được hiểu như thế nào là đúng pháp luật ? Ý nghĩa của nó là gì ? Bài viết sẽ phân tích và làm sáng tỏ vấn đề trên:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng áp dụng khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, để ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Mục Lục
1. Quy định về các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự trước đây
Biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự gồm: bắt người, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, những biện pháp bắt người, tạm giữ, tạm giam được quy định trong Luật số 103-SL/L.005 ngày 20.5.1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân. Luật này không quy định các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh và đăt tiền hoặc tài sản để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn, còn các trường hợp phạm pháp quả tang và trường hợp khẩn cấp được quy định cụ thể trong Sắc luật số 002-SLt ngày 18.6.1957. Trong một thời gian dài, áp dụng các văn bản pháp luật trên đã giúp cho việc đấu tranh chống tội phạm đạt kết quả. Tuy chưa quy định thật đầy đủ các biện pháp ngăn chặn nhưng các văn bản pháp luật trên vẫn là cơ sở đầu tiên để xây dựng và hoàn thiện các biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1988.
Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn gồm: để kịp thời ngăn chặn tội phạm; khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội; khi cần để bảo đảm thi hành án (Điều 79).
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn phải do người có thẩm quyền quyết định (trừ trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã) và bảo đảm đúng các thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Khi tiến hành tố tụng, cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án trong phạm vi trách nhiệm của mình phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.
Thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp ngăn chặn bảo đảm cho việc giải quyết vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi; bảo đảm dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp.
2. Khái niệm biện pháp ngăn chặn
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, pháp luật tố tụng hình sự nước ta quy định nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau. Những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự có nội dung tương đối rộng và cụ thể, được chia thành ba nhóm:
– Nhóm 1: Gồm những biện pháp nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người có hành vi phạm tội bỏ trốn hoặc có hành vi gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án như giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi noi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
– Nhóm 2: Gồm những biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ như khám xét, khám nghiệm hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể…
– Nhóm 3: Gồm những biện pháp bảo đảm thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như kê biên tài sản, phong toả tài khoản, tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân có liên quan đến hành vĩ phạm tội của pháp nhân, buộc pháp nhân nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án, áp giải bị can, bị cáo, người bị kết án, dẫn giải người làm chứng, những biện pháp xử lí do thẩm phán chủ toạ phiên toà áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nội quy phiên toà.
Những biện pháp ngăn chặn là một trong những nhóm của biện pháp cưỡng chế. Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như để bảo đảm thi hành án. Những biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong hiến pháp và các văn bản pháp luật khác.
BLTTHS hiện hành quy định những biện pháp ngăn chặn trong Chương VI gồm: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
3. Ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn
Quy định và áp dụng những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự có ý nghĩa lớn trong việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm:
– Những biện pháp ngăn chặn thể hiện sự kiên quyết của nhà nước trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tội phạm về bản chất là hành vĩ nguy hiểm cho xã hội, gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại cho những quan hệ xã hội quan trọng được luật hình sự bảo vệ. Tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định của chế độ nhà nước, chế độ kinh tế-chính trị và xã hội, đến tính mạng, sức khoẻ, tự do, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân cũng như các quy tắc của cuộc sống xã hội – xã hội chủ nghĩa. Do đó, Nhà nước ta coi việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lí nghiêm minh nhằm tiến tới loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và phải được tiến hành một cách kiên quyết, triệt để, không khoan nhượng. Việc quy định và đảm bảo thực hiện các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS là biểu hiện cụ thể quan điểm đó của Nhà nước.
– Những biện pháp ngăn chặn bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng được thuận lợi; góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thông thường, người phạm tội ý thức rất rõ về hậu quả pháp lí mà mình phải chịu do việc thực hiện tội phạm nên họ tìm đủ mọi cách để vừa có thể nhanh chóng đạt được mục đích phạm tội lại vừa có thể che giấu, trốn tránh sự phát hiện và trừng phạt của pháp luật. Do đó, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn cần thiết nhằm ngân chặn kịp thời và có hiệu quả ngay từ đầu các hành vi thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho việc xử lí người phạm tội là một tất yếu khách quan. Mặt khác, việc quy định và áp dụng các biện pháp ngăn chặn hỗ trợ rất nhiều cho các hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, giúp cho các hoạt động này được tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao. Bởi lẽ, với tính đặc thù của các biện pháp này là “cưỡng chế nhằm ngăn chặn” đã góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải quyết vụ án.
– Những biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng đối với đối tượng nhất định trong những trường hợp nhất định khi có căn cứ pháp luật quy định nên đã bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng quyền con người, quyền công dân được hiến pháp quy định như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và tự do đi lại…;
Quy định và áp dụng những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự không chỉ đon thuần là tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện tốt nhiệm vụ theo chức năng của mình mà còn nhằm đảm bảo sự tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong hiến pháp. Điều này thể hiện ở chỗ việc áp dụng hay không áp dụng biện pháp ngăn chặn nào đó trong đấu tranh phòng chống tội phạm không xuất phát từ ý muốn chủ quan, bởi sự áp đặt từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà là từ các quy định của pháp luật, xuất phát từ pháp luật và đáp ứng sự đòi hỏi của thực tiễn. Sự tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự khi áp dụng, thay đổi hay huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn nào đó về các phương diện như: đối tượng, căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng… trước hết là xuất phát từ sự tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của con người (đối tượng của các biện pháp ngăn chặn). Mọi trường họp thực hiện không đúng các quy định pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đều phải bị phát hiện và khắc phục kịp thời. Mọi hành vi trái pháp luật khi áp dụng biện pháp ngăn chặn gây hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân đều bị xử lí nghiêm minh. Như vậy, xét một cách toàn diện, quy định và đảm bảo áp dụng nghiêm chỉnh những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là thể hiện tập trung và rõ nét nhất sự dân chủ, tính ưu việt của chế độ Nhà nước ta.
4. Các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự 2015
+ Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm: Biện pháp này là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Trong trường hợp bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền hoặc tài sản đã đặt.
+ Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú: Biện pháp này chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú có trách nhiệm quản lý, theo dõi họ. Bị can, bị cáo vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án áp dụng để buộc bị can, bị cáo không được đi khỏi nơi cư trú của mình và phải có mặt khi có giấy triệu tập.
Biện pháp này chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, có thái độ khai báo thành khẩn, trong trường hợp bị can, bi cáo không bị bắt để tạm giam hoặc đã bị tạm giam nhưng được co quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án cho tại ngoại khi có đủ cơ sở cho rằng họ sẽ không bỏ trốn, không gây cản trở cho việc điều tra, truy tố và xét xử hoặc tiếp tục phạm tội.
Khi áp dụng biện pháp này, cơ quan điều tra , viện kiểm sát hoặc tòa án buộc bị can, bị cáo làm giấy cam đoan không đi khỏi nơi cư trú của mình và phải có mặt khi có giấy triệu tập. Trong trường hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của cơ quan đã áp dụng biện pháp ngăn chặn.
Nếu bị can, bị cáo vi phạm cam đoan sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn chặn
Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn để quản lý, theo dõi.
+Biện pháp tạm giam: Các trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam bao gồm: bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự 2015 quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 . Lưu ý rằng: Chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù.
Tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử được thuận lợi.
Đây là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do thân thể của công dân. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang trong thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc là người già yếu, người đang bệnh nặng, có nơi cư trú rõ ràng thì không bị tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt như phạm tội nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và có căn cứ cho rằng nếu không tạm giam thì người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội thì mới tạm giam họ.
Việc tạm giam phải có lệnh của người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Lệnh tạm giam của Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện, Thủ trưởng, Phó Thủ tướng cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên. Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp trong quân đội nhân dân phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê duyệt trước khi thi hành.
+ Biện pháp bảo lĩnh: Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Điều kiện của chủ thể nhận bảo lĩnh quy định tại khoản 4 Điều 92 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015. Bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nếu cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan.
+Biện pháp tạm giữ: Biện pháp tạm giữ được áp dụng trong trường hợp: người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã. Tổng thời hạn tạm giữ (bao gồm thời hạn tạm giữ thông thường và thời hạn gia hạn tạm giữ) là 9 ngày. Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam, một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì người bị tạm giữ phải được trả tự do ngay.
Biện pháp ngăn chặn tạm giữ được áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội tang để cách ly họ với xã hội trong một thời gian cần thiết nhằm ngăn chặn người đó tiếp tục phạm tội, cản trở điều tra và xác định sự liên quan của người này đối với tội phạm.
+Biện pháp bắt gồm các trường hợp: bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Việc bắt người phải tiến hành đúng thẩm quyền theo luật định, trừ trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Phải có biên bản về việc bắt người và phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết.
Bắt giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện, người thực hiện tội phạm đang bị đuổi bắt hoặc người đang bị truy nã để ngăn chặn tội phạm, đảm bảo cho hoạt động phát hiện, xử lý tội phạm hoặc đảm bảo thi hành án. Bất kỳ người nào cũng có quyền bắt giữ các đối tượng nêu trên và dẫn giản đến cơ quan công an. Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Trong khi bắt giữ có quyền tước vũ khí của người bị bắt.
5. Mục đích của biện pháp ngăn chặn
Việc thực hiện các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự nhằm các mục đích sau:
+ Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội;
+ Bảo đảm thi hành án.