Bí quyết làm bài thi trắc nghiệm môn lịch sử đạt kết quả cao
, về cấu trúc và chương trình cơ bản của đề thi: Từ các đề thi minh họa của Bộ GD&ĐT đã công bố, điều tối quan trọng đầu tiên mà các em học sinh cần biết và hiểu là kiến thức các câu hỏi đề thi trắc nghiệm rải đều tất cả các phần, các chương của của chương trình sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 hiện hành.
Các câu hỏi sẽ có các cấp độ từ nhận biết kiến thức đến thông hiểu, vận dụng và vận dụng cao theo “ma trận đề” của Bộ.Số lượng kiến thức của phần lịch sử thế giới là 30% và lịch sử Việt Nam là 70%. Mức độ phân bố câu hỏi từ “nhận biết kiến thức”, “thông hiểu”, “vận dụng”, “vận dụng cao” sẽ dao động là 60%, 20%,10%, 10%. Đề thi sẽ có sự phân hóa từ thấp đến cao, từ dễ đến khó đảm bảo về cơ bản các mức độ sau :
Mức độ biết: là những câu hỏi đơn giản mang tính chất tái hiện kiến thức lịch sử như sự kiện, thời gian, không gian, nhân vật…
Mức độ hiểu: là những câu hỏi yêu cầu học sinh phải lý giải, phân tích, chứng minh được các vấn đề lịch sử dùng để đánh giá năng lực học sinh ở mức độ cao hơn.
Mức độ vận dụng (bao gồm vận dụng và vận dụng cao): là những câu hỏi yêu cầu học sinh phải đưa ra những nhận xét, đánh giá; vận dụng được kiến thức đã học để giải quyết một nhiệm vụ hoặc một vấn đề thực tiễn đặt ra. Đây là nhóm câu hỏi khó nhất và phân loại, phân hóa học sinh cao nhất.
Thứ hai, nắm vững những kiến thức căn bản trong chương trình sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 hiện hành của Bộ GD&ĐT theo cấu trúc và trình tự thời gian của lịch sử thế giới hiện đại từ 1945 đến 2000 và lịch sử Việt Nam từ 1919 đến năm 2000.
Từ những kiến thức, sự kiện, giai đoạn lịch sử cụ thể từng phần, từng chương, hãy học các bài Tổng kết phần, chương để rèn luyện kỹ năng khái quát hóa kiến thức và xâu chuỗi vẫn đề.Tất cả những kiến thức, những vấn đề và sự kiện lịch sử cốt lõi nhất, nổi bật nhất đều hiện hữu trong các bài Tổng kết và đa phần giáo viên, học sinh không để ý.
Thứ ba, học tập bằng kỹ năng khái quát hóa, hệ thống hóa kiến thức.
Ở phần lịch sử thế giới, các em nên học và ôn theo từng vấn đề, chuyên đề với 6 nội dung chủ yếu của lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 : Trật tự thế giới hai cực Ianta; sự hình thành, phát triển và khủng hoảng, sụp đổ của hệ thống CNXH của Liên Xô, Đông Âu; phong trào giải phóng dân tộc Á- Phi- Mỹ La tinh; những chuyển biến quan trọng của CNTB sau Đại chiến 2; sự mở rộng và đa dạng của quan hệ quốc tế nửa sau thế kỷ XX; sự bùng nổ của cách mạng khoa học- kỹ thuật sau Đại chiến 2 và cách mạng khoa học- công nghệ hiện nay.
Ở phần lịch sử Việt Nam, học sinh nên học theo từng giai đoạn lịch sử trong một quá trình liên tục của các sự kiện lớn theo trình tự thời gian từ 1919 đến 2000 ( 1919-1930, 1930-1945, 1945-1946, 1946-1954, 1954-1975, 1975 – 2000).
Mỗi sự mở đầu của từng giai đoạn đều được bắt đầu những sự kiện lớn đánh dấu một thời kỳ phát triển của dân tộc trong những bối cảnh lịch sử khác nhau.Học sinh cần nắm vững nội dung, nhiệm vụ cách mạng của mỗi giai đoạn từ đó rút ra mối quan hệ tương tác, biện chứng của từng giai đoạn gắn liền với từng nhiệm vụ cụ thể. Hoàn cảnh lịch sử thay đổi, đối tượng đấu tranh thay đổi thì chủ trương, khẩu hiệu đấu tranh, hình thức đấu tranh cũng thay đổi.
Tuy nhiên, ngoài những nội dung cốt lõi đó, các em học sinh khi học và thi trắc nghiệm môn Sử năm 2017 cần có thêm một số kiến thức cập nhật của thế giới và Việt Nam trong những năm gần đây khi phải bắt gặp một số câu hỏi rèn luyện kỹ năng vận dụng và vận dụng cao. Đặc biệt là phải biết xâu chuỗi các sự kiện và tìm ra mối liên hệ tương tác và biện chứng giữa hai phần lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể để tìm ra nét tương đồng và điểm khác biệt, biết so sánh hơn và hơn nhất giữa các vấn đề, sự kiện lịch sử.
Thứ tư, rèn luyện kỹ năng ôn kiến thức cơ bản bằng “sơ đồ tư duy”.
Đặc thù của môn Sử là hiện hữu nhiều mốc sự kiện, không gian, thời gian nên các em nên hệ thống hóa kiến thức dưới dạng sơ đồ tư duy để ghi nhớ kiến thức hiệu quả hơn.
Trong quá trình giảng dạy, tùy vào nội dung và tính chất của từng bài giảng, sau mỗi bài học, mỗi chương, mỗi giai đoạn giáo viên có thể định hướng, hướng dẫn học sinh làm “sơ đồ tư duy” dựa trên nguyên lý từ “cây” đến “cành” đến “nhánh”, từ ý lớn sang ý nhỏ theo phương pháp “diễn dịch” : luận điểm, luận cứ, luận chứng.
Từ những kiến thức, sự kiện, vấn đề cơ bản của từng bài, từng chương, từng phần trong sách giáo khoa hiện hành, thông qua sơ đồ tư duy, các em sẽ tự biết cách tổng hợp và xâu chuổi kiến thức theo trình tự, trật tự kiến thức và lý giải các mối quan hệ tác động biện chứng, nhân quả giữa các vấn đề, sự kiện. Từ đó các em sẽ thấy các bài học sẽ trở nên ngắn gọn hơn, súc tích và dễ hiểu, dễ nhớ hơn. Lúc đó, kỹ năng tự học của các em sẽ trở nên bớt nhàm chán khi tự học ở nhà.
Thứ năm, tự ôn luyện ở nhà: Sau khi học xong từng bài, từng chương, từng phần trong chương trình “giảm tải” của Bộ GD&ĐT, trên cơ sở tham khảo các tài liệu hướng dẫn ôn thi trắc nghiệm hiện hành và với sự hướng dẫn của giáo viên Sử, các em nên tập làm các câu hỏi trắc nghiệm liên quan đến bài đó.Tự mình làm các câu hỏi là một cách ôn kiến thức và luyện kỹ năng nhuần nhuyễn, tập làm quen với nhiều dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan để giúp các em chuẩn bị tâm lý, tinh thần vững vàng và tự tin khi vào phòng thi và làm bài thi.
5 bí quyết thi để đạt điểm cao
Thứ nhất, phải biết phân tích và xử lý nhanh. Không nhất thiết phải làm theo trình tự, số thứ tự của câu hỏi. Câu nào thấy dễ và tự tin thì làm trước, câu khó làm sau. 50 phút với 40 câu hỏi thì thí sinh không nên giành quá nhiều thời gian cho nhưng câu hỏi khó mà mình không đủ kiến thức và sự tự tin. Thời gian trung bình mỗi câu khoảng 1,25 phút.
Thứ hai, đọc kỹ yêu cầu của câu hỏi và tìm “từ khóa”, có thể lấy bút chì khoanh tròn “từ khóa” đó để lưạ chọn phương án trả lời với những kiến thức nào. Đây được xem là cách để học sinh giải quyết câu hỏi một cách nhanh nhất và tránh bị lạc đề hay nhầm kiến thức.
Thứ ba, thời gian làm bài thi trắc nghiệm môn Sử chỉ có 50 phút với 40 câu hỏi nên cần tính toán khả năng từ “chậm và chắc” sang “chậm” thành “nhanh”. Cần lưu ý, đọc kỹ, tính toán kỹ câu hỏi và phương án trả lời không có nghĩa là chần chừ, do dự
Thứ tư, nếu không nhớ chính xác các phương án trả lời một số câu hỏi thì không nên đoán mò hoặc làm theo kiểu “phủ xanh đất trống đồi trọc” một cách may rủi mà thí sinh cần dùng phương pháp loại trừ. Một khi các em không có cho mình một đáp án trả lời thật sự chính xác thì phương pháp loại trừ cũng là một kỹ năng hữu hiệu giúp mình tìm ra câu trả lời đúng. Hơn nữa, thay vì đi tìm đáp án đúng, các em hãy thử tìm phương án sai cũng là một cách hay và loại trừ càng nhiều phương án càng tốt.
Cuối cùng, khi các em không còn cơ sở để loại trừ nữa thì nên dùng cách phỏng đoán để nhận thấy phương án nào khả thi hơn, đủ độ tin cậy hơn thì khoanh vào phiếu trả lời và đó là kỹ năng cuối cùng của các em.
Thứ năm, trong cấu trúc đề thi trắc nghiệm môn Sử THPT quốc gia 2017, học sinh cần phân biệt một số dạng câu hỏi thường gặp sau để trên cơ sở đó có các phương án trả lời cho từng dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan:
+ Dạng câu hỏi yêu cầu thí sinh lựa chọn phương án trả lời đúng.
+ Dạng câu hỏi yêu cầu thí sinh lựa chọn câu trả lời đúng nhất.
+ Dạng câu hỏi yêu cầu thí sinh phải hoàn thành câu bằng hình thức điền vào ô trông những kiến thức đúng.
+ Dạng câu hỏi yêu cầu thí sinh phải kết nối đúng hoặc sắp xếp đúng trật tự ( thứ tự) lô gic của các sự kiện, hiện tượng lịch sử theo cách : sự kiện nào có trước, có sau ? sự kiện nào quyết định sự kiên nào ? Sự kiện nào là nguyên nhân, sự kiện nào là hệ quả?…
+ Dạng câu hỏi yêu cầu thí sinh đọc hiểu một đoạn văn bản.
+ Dạng câu hỏi yêu cầu thí sinh phải lựa chọn ý phủ định khi câu hỏi cố tình sai buộc thí sinh nêu quan điểm khoa học trước các câu hỏi như vậy.