Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới hay nhất – Tìm đáp án, giải bài tập,

TimDapAnmời các bạn cùng tham khảo những Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới dành cho Đảng viên mới hay được chúng tôi tổng hợp trong bài viết dưới đây

Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng sẽ không phải do các cá nhân tự định hướng để khai thác mà sẽ có những câu hỏi cụ thể. Thông qua cách trả lời những câu hỏi này sẽ thể hiện người viết có những hiểu biết gì về tổ chức đảng, những quan điểm về đảng như thế nào… để từ đó đánh giá và đưa ra quyết định có được kết nạp vào đảng hay không. Sau khi tham gia lớp Đảng viên mới, các bạn sẽ phải hoàn thành mẫu bài thu hoạch sau đó qua quá trình nhận xét, xét duyệt Đảng viên. Và để hỗ trợ cho các bạn trong quá trình viết bài thu hoạch lớp đảng viên mới thì dưới đây TimDapAncó đưa ra những câu hỏi thường gặp trong bài thu hoạch, hướng dẫn viết bài cũng như những mẫu bài thu hoạch hay để bạn tham khảo.

1. Mẫu Bài thu hoạch lớp đảng viên mới năm 2021

Những câu hỏi thường gặp trong bài thu hoạch lớp đảng viên mới

Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng sẽ không phải do các cá nhân tự định hướng để khai thác mà sẽ có những câu hỏi cụ thể. Thông qua cách trả lời những câu hỏi này sẽ thể hiện người viết có những hiểu biết gì về tổ chức đảng, những quan điểm về đảng như thế nào… để từ đó đánh giá và đưa ra quyết định có được kết nạp vào đảng hay không. Và sau đây sẽ là những câu hỏi thường gặp trong các bài thu hoạch càm tình đảng:

– Trình bày định hướng về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam?

– Tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của đảng viên được quy định như thế nào trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam? Anh, chị cần phải làm gì, phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên?

– Phân tích nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong thời kỳ hiện nay?

– Nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh?

– Anh/ chị hãy phân tích những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam? Những truyền thống đó được Đảng ta giữ gìn và phát huy ra sao?

Hướng dẫn viết bài thu hoạch lớp đảng viên mới

Do câu hỏi các bài thu hoạch lớp đảng viên mới ở mỗi cơ sở đảng là khác nhau và có rất nhiều câu hỏi. Trong phạm vi bài viết, Luật Hoàng Phi không thể hướng dẫn quý vị hoàn thiện tất cả những câu hỏi trên. Ở phần này, Luật Hoàng Phi sẽ gợi ý quý vị trả lời về định hướng hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thứ nhất: Về định hướng của hệ thống chính trị Việt Nam

– Tính nhất nguyên chính trị:

  • Chế độ chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền, không tồn tại các đảng chính trị đối lập;
  • Hệ thống chính trị của Việt Nam gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam;
  • Nhất nguyên về tư tưởng, toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh;

– Về tính thống nhất thể hiện qua:

  • Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng cầm quyền duy nhất;
  • Thống nhất về mục tiêu chính trị là xây dựng chủ nghĩa xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
  • Thống nhất về nguyên tắc cơ bản là tập trung dân chủ;
  • Thống nhất về tổ chức ở từng cấp, ngành, từ trung ương đến địa phương.

– Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.

Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị và nhân dân được thể hiện qua các yếu tố sau:

  • Sự gắn bó với nhân dân là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng;
  • Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân;
  • Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội là hình thức tập hợp của chính các tầng lớp nhân dân;
  • Mỗi tổ chức chính trị trong hệ thống chính trị là phương thức thực hiện các quyền làm chủ của nhân dân.

– Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị

Hệ thống chính trị của Việt Nam có đặc điểm nổi bật là đại diện cho nhiều giai cấp và tầng lớp nhân dân. Các tầng lớp nhân dân và các giai cấp được đại diện bởi các tổ chức trong hệ thống chính trị và đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Chính vì thế, hệ thống chính trị Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân và mang tính dân tộc.

Sự kết hợp này thể hiện trong bản chất của từng tổ chức. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân cũng là đội tiên phong của nhân dân lao động và cả dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, gắn liền với dân tộc và giai cấp tạo nên sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị.

Thứ hai: Về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với hệ thống chính trị

Hệ thống chính trị của Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. Đây là sự lựa chọn của dân tộc, là tất yếu khách quan, tất yếu lịch sử và có cơ sở pháp lý, cơ sở đạo lý;

Khi là Đảng duy nhất cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng đòi hỏi phải có sự phân định sự lãnh đạo của Đảng đối với việc quản lý, điều hành của nhà nước;

Đảng ta vừa là lực lượng lãnh đạo vừa là thành viên của hệ thống chính trị. Chính vì thế phải xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, tư cách thành viên và khả năng độc lập của mỗi thành viên trong các mối quan hệ.

Vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng luôn được xác định cụ thể trong từng tổ chức của hệ thống chính trị. Bởi sự mơ hồ hoặc thiếu cụ thể về vai trò sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của Đảng.

Sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới đòi hỏi phải có sự đổi mới và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng nhằm phát triển kinh tế theo hướng hội nhập nhưng vẫn giữ nguyên màu sắc của chủ nghĩa xã hội, của dân tộc Việt Nam.

2. Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới số 1

Qua lớp Bồi dưỡng LLCT lớp Đảng viên mới, đồng chí liên hệ tình hình thực tế tại chi bộ trong sinh hoạt và bản thân đối với thực hiện các nội dung chủ yếu xây dựng Đảng về đạo đức trong giai đoạn hiện nay.

Trả lời

Hiện nay, sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang gây nên bức xúc của toàn xã hội, đã làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và đang trở thành nguy cơ hiện hữu uy hiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Ngay từ Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) Đảng ta đã tiến hành chỉnh đốn Đảng, đấu tranh không khoan nhượng với những biểu hiện suy thoái, biến chất nêu trên. Và nhận thức tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng về đạo đức trong tình hình mới nên đến Đại hội XII của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề cập một cách chính thức xây dựng Đảng về đạo đức vào trong Văn kiện của Đảng; trong đó đề cập cụ thể đến các nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức.

Trước khi liên hệ với việc thực hiện các nhiệm vụ này đối với bản thân và tại Chi bộ đang công tác thì cần làm rõ về các nhiệm vụ chủ yếu trong xây dựng Đảng về đạo đức trong giai đoạn hiện nay. Các nhiệm vụ này bao gồm:

Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị – xã hội, địa phương, đơn vị gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

– Vấn đề học tập và làm theo Bác đã được tiến hành lâu dài trong lịch sử Đảng ta. Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

– Ngày 15-5-2016, thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Bộ Chính trị khóa. XII đã ban hành Chỉ thị số 05 -CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Chỉ thị xác định đây là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

Như vậy, việc thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ đề ra trong Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị là biện pháp quan trọng hàng đầu để xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay.

Hai là, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, “nói không đi đôi với làm”

– Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, Đại hội XII yêu cầu trước hết là phải “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động, ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”.

– Trong nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí, cần “Kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí với yêu cầu chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí”.

Ba là, xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị

– Nêu gương là một phương pháp cơ bản trong giáo dục đạo đức, lối sống. Thực hiện Quy định số 101-QD/TW về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp quán triệt các nội dung nêu gương gồm 7 lĩnh vực: về tư tưởng chính trị; về đạo đức, lối sống, tác phong; về tự phê bình và phê bình; về quan hệ với nhân dân; về trách nhiệm trong công tác; về ý thức tổ chức kỷ luật và về đoàn kết nội bộ

Bốn là, thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và của nhân dân về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên

Việc thực hiện quy định chung về kiểm tra, giám sát của Đảng và thực hiện vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và của nhân dân về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên nhằm: Phát huy ưu điểm, phát hiện gương cán bộ, đảng viên tiêu biểu, điển hình tiên tiến trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức để nhân rộng, biểu dương, khen thưởng kịp thời. Kịp thời nắm bắt và giúp cán bộ, đảng viên nâng cao ý thức, trách nhiệm trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Giáo dục và ngăn ngừa vi phạm đạo đức của cán bộ, đảng viên; xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm đạo đức theo quy định.

* Liên hệ thực tế với bản thân và Chi bộ đang công tác về các nhiệm vụ chủ yếu của xây dựng Đảng về đạo đức trong giai đoạn hiện nay

– Đối với Chi bộ bản thân đang sinh hoạt:

Thứ nhất, tôi nhận thấy Chi bộ…nơi tôi đang sinh hoạt rất chú trọng đối với việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên thuộc Chi bộ mình.

Cụ thể, Chi bộ đã quán triệt 100% cán bộ, đảng viên tham gia học tập các nghị quyết của Đảng về giáo dục đạo đức, chính trị, tư tưởng, như Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về văn hóa; Nghị quyết Trung ương 6, lần 2 (khóa VIII); Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX); Nghị quyết Trung ương 5, 6 (khóa X); đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng, trong đó nhấn mạnh vấn đề trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất là: Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên để củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng.

Thứ hai, Chi bộ luôn luôn đổi mới đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong Chi bộ.

Và bản thân tôi sinh hoạt trong chi bộ cũng nhận thấy rằng việc đổi mới này đã mang lại hiệu quả tích cực hơn trước nhiều lần.

Chi bộ rất chú trọng việc đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ chí Minh. Các buổi sinh hoạt chuyên đề về nội dung này thực sự đã làm cho cán bộ, đảng viên thật sự thấm nhuần tấm gương của Người về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, từ đó, triệt để thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí… bằng các tiêu chí, chuẩn mực đạo đức cụ thể. Đảng bộ phường cũng đã tổ chức rất thành công Hội thi Tuyên truyền về thực Chỉ thị 05-CT/TW gắn với Nghị quyết Trung ương 4, Khoá XII.

Đảng bộ phường Thanh Bình nói chung và Chi bộ… nói riêng đã phát động các phong trào thi đua, xây dựng các mô hình, tấm gương của tập thể, cá nhân tiêu biểu trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Tạo sự chuyển biến thực sự về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong Chi bộ cũng như trong toàn Đảng bộ.

Thứ ba, Chi bộ luôn phát huy tinh thần tự học, tự rèn đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, đảng viên tự học, tự rèn.

Cụ thể, Chi uỷ nơi tôi đang sinh hoạt đã tạo môi trường thuận lợi, chú trọng phân công, giao nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên để có điều kiện cọ sát, rèn luyện, thử thách. Và Chi uỷ đã quán triệt quan điểm: Nếu lười học nhất là lười học lý luận, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận, cập nhật những thông tin mới, những tri thức mới cũng là một biểu hiện suy thoái về đạo đức.

Thứ tư, Chi bộ mà tôi sinh hoạt đã rất nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình.

Thứ năm, Chi bộ luôn chú trọng tăng cường kiểm tra, giám sát đối với việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, về tự học, tự rèn nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong Chi bộ. Và thực tế, tôi nhận thấy rằng việc kiểm tra, giám sát quá trình rèn luyện, tu dưỡng phấn đấu, về tự học, tự rèn của cán bộ, đảng viên đã tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên trong Chi bộ thường xuyên làm tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Thêm vào đó, Đảng bộ phường Thanh Bình nói chung và Chi bộ… nói riêng đã tích xây dựng môi trường công tác của cơ quan, đơn vị, trong sạch, tích cực làm cho cán bộ, đảng viên có nếp sống lành mạnh, có đạo đức trong sáng; cấp trên làm gương cho cấp dưới, cán bộ, đảng viên nêu gương cho quần chúng, nói và làm đi đôi với nhau.

Thứ sáu là, Chi bộ …đã làm rất tốt công tác thi đua khen thưởng, kịp thời nêu gương người tốt, việc tốt. Có chế độ, chính sách thoả đáng với những người có thành tích tốt; kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, hoặc có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống.

– Đối với bản thân:

Tôi nhận thức rất rõ rằng, để thực hiện các nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức thì trước hết người cán bộ, đảng viên phải có đạo đức cách mạng, phải trong sáng, trung thực, trách nhiệm. Và làm được điều này sẽ góp phần xây dựng Đảng ta trong sạch, đạo đức và văn minh.

Chính vì vậy, bản thân tôi luôn ý thức tự giác rèn luyện, học tập, tu dưỡng để nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống với phương châm suốt đời phụng sự Tổ quốc và nhân dân, lấy ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân làm lý tưởng hành động.

Bên cạnh đó, bản thân tôi luôn chú trọng đến công tác tự phê bình và phê bình. Tôi luôn thể hiện trách nhiệm của bản thân trong công tác này, không làm qua loa, lấy lệ.

Trong sinh hoạt đảng cũng như trong mọi hoạt động ở cơ quan tôi luôn thể hiện thái thực sự cầu thị, biết lắng nghe ý kiến phê bình của người khác để sau mỗi lần phê bình và tự phê bình trưởng thành hơn về nhận thức, tư tưởng, có tinh thần đoàn kết, ý thức tích cực trong đấu tranh chống những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.

Bản thân tôi luôn nghiêm túc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Và tôi quan niệm rằng không học và làm theo Bác từ những điều bình dị nhất để hoàn thiện bản thân trong cuộc sống hằng ngày, trong mối quan hệ với đồng nghiệp, trong giao tiếp với nhân dân và trong thực hiện nhiệm vụ mà cơ quan giao phó.

Ngoài ra, thực hiện tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, khoá XII, bản thân tôi tự soi mình vào 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá trong nội bộ mà Nghị quyết đã chỉ ra để tự răn mình, tự sửa mình.

3. Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới số 2

BÀI THU HOẠCH LỚP ĐẢNG VIÊN MỚI

Họ và tên:……………………………………………..

Năm tháng năm sinh:………………………………………

Quê quán:………………………………………

Hộ khẩu thường trú:………………………………………

Ngày vào Đảng:………………………………………

Nơi vào Đảng:………………………………………

BÀI LÀM

I. Về chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh

Con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã chỉ rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.

Đại hội IX khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Trong thời đại ngày nay có lắm chủ nghĩa nhưng chủ nghĩa Mác – Lê nin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận thực sự cách mạng và khoa học.

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tổng kết kinh nghiệm cách mạng thế giới và thực tiễn tình hình đất nước, Người đã chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, soạn thảo Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, xác định đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác – Lê nin, giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, qua đó phát triển sáng tạo, làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác – Lê nin. Thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc và đưa đất nước phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng là một minh chứng sống động về sự vận dụng thành công chủ nghĩa Mác – Lê nin ở nước ta.

Việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực tiễn nước ta hiện nay đang là vấn đề được Đảng ta hết sức quan tâm, coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải đi liền với bổ sung và phát triển dựa trên những vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Phải chăm chú phát hiện, tổng kết thực tiễn để tìm ra cái mới của lý luận, bổ sung cho kho tàng lý luận mác xít, dùng nó như một kim chỉ nam dẫn đường chứ không phải kinh thánh để rơi vào giáo điều. Kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Để đấu tranh có hiệu quả, cần nắm có hệ thống từng luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn với hoàn cảnh lịch sử và yêu cầu cụ thể cần giải quyết. Đồng thời, phải tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới; đưa những tư tưởng, quan điểm đó vào thực tế cuộc sống, đem lại hiệu quả thiết thực nhằm hiện thực hoá thắng lợi những đặc trưng cơ bản của cách mạng xã hội, hiện thực hoá thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là cách tốt nhất để bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Phải kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, xét lại và bảo thủ, giáo điều. Kiên định chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính nguyên tắc số một đối với Đảng ta. Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng, khoa học và nhân đạo, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp vào điều kiện nước ta, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ phía những thế lực thù địch và những kẻ cơ hội. Trong tình hình hiện nay, việc nghiên cứu, học tập để nắm vững, vận dụng sáng tạo, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo đã khẳng định: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn. Hơn bảy mươi năm qua, Đảng ta luôn luôn kiên định, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhờ vậy, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại.

Bài học chủ yếu, quan trọng hàng đầu của 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới và Đại hội IX xác định cũng chính là phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm trước đó, Đại hội VI rút ra những bài học quý giá có tầm chỉ đạo trong việc xác định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta:

Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.

Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.

Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.

Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Từ đó, Đảng ta nhấn mạnh rằng, để xác định đúng đắn phương hướng đilên chủ nghĩa xã hội, phải vận dụng đúng quy luật khách quan. Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật là đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước ổn định và nâng cao, con người mới xã hội chủ nghĩa ngày càng hình thành rõ rệt, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố. Đại hội VI đã đặt vấn đề chính sách xã hội một cách cơ bản. Lần đầu tiên chính sách xã hội được xem xét một cách tổng thế và toàn diện gắn liền với chính sách kinh tế, giải quyết phù hợp với từng chặng đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở những quan điểm cơ bản và lâu dài về chính sách xã hội. Điều này thể hiện được bản chất của chủ nghĩa xã hội, là cơ sở để đi đến mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ta ngày càng toàn diện hơn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) với chủ trương: tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 (1991-2000).Đại hội VIII với việc xác định rõ hơn mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội IX với việc bổ sung, phát triển quan niệm mục tiêu và phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Tóm lại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta. Con đường này phù hợp với chủ nghĩa Mác – Lê nin và đã được thực tiễn kiểm nghiệm hơn bảy mươi năm qua là hoàn toàn đúng đắn. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc của đổi mới mà thực chất là sự kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, kiên định con đường “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” mà dân tộc Việt Nam đã lựa chọn.

2. Về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhànước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

2.1. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là một tất yếu lịch sử và là tất yếu khách quan. Đảng ta luôn là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhà nước và là nhân tố bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng nước ta trong mọi giai đoạn lịch sử. Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và mọi mặt của đời sống xã hội được nhìn nhận như một quy luật có tính tất yếu. Vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương luôn giữ tính chất quyết định và bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng Nhà nước pháp quyền là một chủ trương lớn có tính chất quyếtđịnh thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể hiện trên những nội dung trọng yếu sau đây:

– Lãnh đạo các cơ quan nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương,chính sách của Đảng thành pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước và tổ chức thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, đảm bảo cho đường lối, chủtrương, chính sách của Đảng trở thành hiện thực sinh động trong đời sống toàn xã hội.

– Đảng lãnh đạo chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.-. Đảng phải lãnh đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Nhìn tổng quát, nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là rất toàn diện và bao quát toàn bộ những vấn đề then chốt về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

4. Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới số 3

Phần I. Vị trí, vai trò và nhiệm vụ của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam

1. Vị trí, vai trò của người Đảng viên:

  • Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.

  • Đội ngũ đảng viên là những người có trách nhiệm góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.

  • Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người phục vụ quần chúng.

  • Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng.

2. Nhiệm vụ của người Đảng viên:

1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.

2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.

3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí đúng quy định.

Phần II. Không ngừng phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu đảng viên

1. Thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng:

Một là, về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị.

  • Đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản, kiên định lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; vững vàng, không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Có mục tiêu, lý tưởng là tiêu chí phân biệt giữa đảng viên và quần chúng.

  • Mục tiêu, nhiệm vụ chính trị cụ thể của người đảng viên Việt Nam hiện nay là phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện thành công công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, thái độ và sự tham gia tích cực thực hiện đường lối đổi mới là thước đo phẩm chất, năng lực, vai trò tiên phong, gương mẫu của mỗi đảng viên.

Hai là, về nhận thức, kiến thức, năng lực toàn diện thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.

  • Lê nin đã dặn đi dặn lại những người cộng sản Nga rằng: nếu chỉ có nhiệt tình và lòng dũng cảm không thôi thì không thể chiến thắng được chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mặc dù nhiệt tình cách mạng và lòng dũng cảm là yếu tố cực kỳ quan trọng. Để chiến thắng chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản còn phải có kiến thức, có trình độ văn hoá cao, có trí thông minh và năng lực làm việc. Muốn thế, phải không ngừng học tập, học tập một cách kiên trì và nghiêm túc; không bằng lòng với những kinh nghiệm của mình; kiêu ngạo cộng sản là báo hiệu một sự tụt hậu…

  • Đổi mới ở nước ta hiện nay là cuộc vận động cách mạng toàn diện và sâu sắc, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá đang tạo ra thời cơ và thách thức với tất cả quốc gia, dân tộc. Rõ ràng, trong tình hình đó, đảng viên phải không ngừng bồi dưỡng những kiến thức văn hoá, khoa học – kỹ thuật, quản lý kinh tế – xã hội, pháp luật… để có đủ năng lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Ba là, về phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, mà nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; có tinh thần quốc tế trong sáng, luôn xứng đáng với người lãnh đạo và người đầy tớ trung thành của nhân dân… Những lời dạy đó của Người đến nay vẫn giữ nguyên vẹn giá trị và có ý nghĩa to lớn trong thời kỳ đổi mới.

  • Những chuẩn mực đạo đức mà người đảng viên cần có là lòng yêu nước sâu sắc, tôn trọng và hết lòng phục nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có thái độ tích cực ủng hộ xu thế đổi mới, tham gia vào công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng; thống nhất giữa lời nói và việc làm.

  • Đạo đức, lối sống mới yêu cầu dũng cảm vạch trần, phê phán những biểu hiện cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, những mưu toan dựa vào xu thế và hoàn cảnh đổi mới để tìm kiếm lợi ích riêng cho bản thân mình.

  • Tư tưởng và ý thức đạo đức phải đi liền với hành động, trong lao động, trong công việc, trong quan hệ với con người, trong đấu tranh khắc phục mọi tệ nạn và làm lành mạng các quan hệ xã hội.

Bốn là, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng trên cơ sở thực hiện đúng các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình.

  • Đoàn kết trong đảng là yêu cầu tối quan trọng của Đảng Cộng sản. Trong Đảng Cộng sản không thể tồn tại nhiều phái, nhiều phe cánh với lập trường và lợi ích khác nhau. Đoàn kết đã trở thành một truyền thống quý báu của Đảng ta mà tất cả các tổ chức đảng và đảng viên phải ra sức giữ gìn, vun đắp như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Nền tảng của sự đoàn kết trong Đảng là chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối và các nguyên tắc tổ chức Đảng.

  • Sức mạnh của Đảng là ở tính thống nhất: thống nhất quan điểm, thống nhất ý chí, thống nhất hành động. Tập trung dân chủ là nguyên tắc bảo đảm sự thống nhất của Đảng. Vì vậy, mọi cán bộ, đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải tôn trọng và chấp hành đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.

  • Đảng viên có trách nhiệm tích cực tham gia thảo luận các vấn đề thuộc về đường lối, chủ trương của Đảng, có quyền chất vấn, tranh luận một cách thẳng thắn; đồng thời chú ý lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác. Khi đã thành quyết định của tập thể thì phải nghiêm túc chấp hành, không được phát ngôn tuỳ tiện hoặc lan truyền những ý kiến, quan điểm riêng của mình bên ngoài các hội nghị Đảng.

Năm là, có quan hệ mật thiết với quần chúng.

  • Sức mạnh vô địch của Đảng là ở mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Phát huy dân chủ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Vì vậy, mỗi đảng viên, trước hết là đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, có chức, có quyền, phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của dân, chăm lo đời sống hàng ngày của dân, tìm hiểu nguyện vọng và lắng nghe ý kiến dân, giúp đỡ dân khi gặp khó khăn, kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, gia trưởng, độc đoán, đặc quyền đặc lợi, trù dập, ức hiếp dân và mọi hành vi vi phạm quyền dân chủ của dân. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, một yêu cầu rất cần thiết đối với người đảng viên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền.

  • Sự gắn bó với quần chúng, mối liên hệ mật thiết với quần chúng không chỉ là một tiêu chuẩn của nhân cách đảng viên, mà còn là sự thử thách đặc biệt thể hiện năng lực hoạt động chính trị – thực tiễn, phương pháp và phong cách làm việc của mỗi đảng viên

Sáu là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.

  • Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng có nguyên nhân từ đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng. Nhiệm vụ của người đảng viên là phải thực hiện đúng đắn đường lối đó của Đảng.

  • Bước vào giai đoạn mới, vấn đề đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt Nam mang nội dung mới. Đó là, kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên trong và bên ngoài, làm tốt nghĩa vụ quốc tế trong hoàn cảnh mới.

2. Không ngừng tự phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu người Đảng viên cộng sản:

Khái niệm “Đảng viên” bao hàm hai mặt: Cá nhân một con người mang danh hiệu Đảng viên và một thành viên của Đảng (của một tổ chức Đảng cụ thể và của toàn Đảng nói chung). Người Đảng viên chỉ xứng đáng với danh hiệu cao quý của mình khi làm tròn bổn phận trên cả hai tư cách đó, nhờ sự phấn đấu của bản thân và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tổ chức đảng.

Về mặt cá nhân: Trước hết mỗi người đảng viên phải rèn luyện mình theo những đức tính của con người Việt Nam, đó là:

  • Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

  • Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.

  • Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.

  • Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.

  • Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.

Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm tại mục Bài thu hoạch trong mục tài liệu nhé.