Bài thu hoạch chi bộ Đảng
CHI BỘ TRƯỜNG THCS NGUYỄN TRÃI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
BÀI THU HOẠCH
SAU KHI HỌC TẬP NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG
I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG
Xác định tầm quan trọng đặc biệt của Nghị quyết Trung ương 4, ngay sau khi Nghị quyết ban hành, Bộ Chính trị đã ban hành chỉ thị, dự thảo Kế hoạch thực hiện và tổ chức Hội nghị cán bộ chủ chốt toàn quốc (với quy mô lớn nhất từ trước đến nay) để học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết do đồng chí Tổng Bí thư trực tiếp truyền đạt; mở hai Hội nghị với cán bộ cao cấp đã nghỉ hưu nguyên là ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng và tương đương để quán triệt Nghị quyết và thống nhất nội dung, cách tiến hành; mở các lớp nghiên cứu Nghị quyết cho cán bộ chủ chốt ở các cơ quan Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và chỉ đạo chặt chẽ, nghiêm túc việc học tập, quán triệt Nghị quyết ở các cấp, tạo sự thống nhất về nhận thức, ý chí, quyết tâm trong toàn Đảng về thực hiện Nghị quyết.
Việc triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể với quyết tâm chính trị cao; ba nhiệm vụ cấp bách và bốn nhóm giải pháp nêu trong Nghị quyết đã được thể chế hoá, cụ thể hoá bằng các chỉ thị, kế hoạch, quyết định, quy định, quy chế, hướng dẫn của Trung ương tương đối kịp thời, đồng bộ và cụ thể, tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho việc triển khai, tổ chức thực hiện ở các cấp.
Công tác chỉ đạo thực hiện Nghị quyết, nhất là việc chuẩn bị và tổ chức kiểm điểm, tự phê bình và phê bình trong Đảng có một số nội dung, cách làm mới, đem lại kết quả cụ thể, thiết thực như: Quá trình chuẩn bị kiểm điểm, cấp ủy các cấp lấy ý kiến góp ý kiểm điểm của các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc và cán bộ chủ chốt của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị đã nghỉ hưu bằng các hình thức phù hợp; cấp trên rà soát và gợi ý kiểm điểm đối với những tập thể, cá nhân có vấn đề nổi cộm, cần kiểm điểm sâu và phải có báo cáo giải trình; nơi nào chuẩn bị chưa đạt yêu cầu thì chưa được tiến hành kiểm điểm. Bộ Chính trị xác định 12 biểu hiện chủ yếu để xác định việc chuẩn bị và tổ chức kiểm điểm không đạt yêu cầu, làm cơ sở để cấp trên đánh giá kết quả kiểm điểm cấp dưới ở các cấp. Nội dung kiểm điểm chỉ tập trung vào 3 vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết, gắn với xem xét việc thực hiện các quy chế, quy định của Đảng; việc giải quyết những vấn đề bức xúc của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; liên hệ làm rõ những hạn chế, khuyết điểm, yếu kém đã chỉ ra nhiều năm nhưng chậm được khắc phục. Trình tự kiểm điểm được tiến hành từ trên xuống dưới, cấp trên kiểm điểm trước, cấp dưới kiểm điểm sau; tập thể kiểm điểm trước, cá nhân kiểm điểm sau; cấp trên dự và chỉ đạo việc kiểm điểm ở cấp dưới, nhất là đối với những tập thể, cá nhân được gợi ý kiểm điểm; trong quá trình kiểm điểm, vấn đề nào đã rõ thì kết luận ngay, vấn đề nào chưa rõ thì giao cho cơ quan chức năng thẩm tra, xem xét, làm rõ trước khi kết luận. Sau kiểm điểm, cấp ủy có kết luận bằng văn bản về những ưu, khuyết điểm chính của tập thể, cá nhân và mỗi tập thể, cá nhân đều phải xây dựng kế hoạch sửa chữa khắc phục khuyết điểm; kết quả kiểm điểm phải báo cáo trước hội nghị cấp ủy hoặc hội nghị cán bộ chủ chốt cùng cấp thảo luận, tham gia ý kiến và phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp đánh giá; tập thể, cá nhân nào kiểm điểm chưa đạt yêu cầu thì phải kiểm điểm bổ sung hoặc kiểm điểm lại; cấp ủy thông báo kết quả tiếp thu ý kiến đối với những tập thể, cá nhân đã đóng góp ý kiến trước kiểm điểm bằng các hình thức phù hợp.
Trong quá trình chỉ đạo thực hiện Nghị quyết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát và đôn đốc việc thực hiện, nhất là trong quá trình chuẩn bị, tổ chức kiểm điểm và việc xây dựng, thực hiện kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm đã được kết luận qua tự phê bình và phê bình; định kỳ đánh giá kết quả rút kinh nghiệm và kịp thời bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện các quy chế, quy định cho phù hợp với thực tiễn.
Một số kết quả chủ yếu đạt được:
Với quan điểm khách quan, toàn diện và thái độ nghiêm túc, chúng ta có thể khẳng định rằng: Những kết quả qua 4 năm thực hiện Nghị quyết tuy chưa được như mong muốn, nhưng đã tạo được một số chuyển biến quan trọng bước đầu về công tác xây dựng Đảng, thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, góp phần củng cố, nâng cao và thống nhất nhận thức tư tưởng trong Đảng về tình hình Đảng và công tác xây dựng Đảng hiện nay. Thông qua việc tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương một cách nghiêm túc ở các cấp, đã trở thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng; giúp cho các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức về vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng; thấy rõ và sâu sắc ý nghĩa quan trọng, sự cần thiết phải thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 và nhận diện rõ hơn những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Từ đó, mỗi cán bộ, đảng viên xác định trách nhiệm của mình, nêu cao ý thức tự giác, gương mẫu trong việc thực hiện Nghị quyết.
Hai là, đã góp phần đấu tranh, ngăn chăn, đẩy lùi được một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Qua việc chuẩn bị và tổ chức kiểm điểm, tự phê bình, phê bình tập thể, cá nhân và lắng nghe, tiếp thu ý kiến góp ý trước kiểm điểm, là dịp để mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên tự nhìn nhận, soi xét lại bản thân mình, thấy rõ ưu điểm để phát huy và hạn chế, khuyết điểm để sửa chữa, khắc phục; đồng thời, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm, từ đó tự điều chỉnh nhận thức, hành vi của bản thân, của vợ (chồng), con và người thân. Qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, kết hợp với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; với công tác thanh tra, kiểm toán của Nhà nước và công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật, chỉ tính trong 3 năm (2012, 2013, 2014), toàn Đảng đã xử lý kỷ luật hơn 54.000 đảng viên ở các cấp và xóa tên, cho ra khỏi Đảng hàng nghìn trường hợp khác, đã có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe và phòng ngừa sai phạm; siết lại kỷ cương, kỷ luật, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi được một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, góp phần làm trong sạch nội bộ Đảng.
Ba là, đã kịp thời sửa chữa, khắc phục được một số hạn chế, khuyết điểm, yếu kém kéo dài trên một số lĩnh vực của công tác xây dựng Đảng. Sau kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên đều xây dựng và thực hiện kế hoạch sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm đã được kết luận qua tự phê bình và phê bình. Do vậy, một số hạn chế, khuyết điểm, yếu kém về công tác tổ chức cán bộ đã từng bước được khắc phục. Nhiều vụ, việc nổi cộm, bức xúc trong xã hội về quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; trong quản lý xây dựng, trật tự đô thị và một số vụ tranh chấp, khiếu kiện kéo dài đã được giải quyết. Nhiều cấp ủy đã quy định cụ thể về việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; quy định cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên phải tham dự sinh hoạt với chi bộ ở địa bàn dân cư định kỳ tiếp xúc, đối thoại với nhân dân tại cơ sở…
Bốn là, đã tạo được một số chuyển biến mới tích cực về công tác cán bộ, nhất là ở cấp Trung ương. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã rà soát, đánh giá và sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, nhất là đối với những cán bộ, đảng viên có khuyết điểm qua tự phê bình và phê bình hoặc tín nhiệm thấp. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp được tăng cường và đẩy mạnh hơn. Lần đầu tiên, Ban Chấp hành Trung ương đã xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Bộ Chính trị đã quyết định tổ chức 02 lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho hơn 150 đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; 06 lớp bồi dưỡng cán bộ dự nguồn cao cấp cho hơn 500 đồng chí; 03 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ theo chức danh cho hơn 170 đồng chí bí thư cấp ủy cấp huyện; điều động, luân chuyển và sắp xếp, bố trí lại nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức và trong quy hoạch ở Trung ương và các địa phương, phục vụ cho công tác chuẩn bị nhân sự đại hội đảng bộ cấp tỉnh nhiệm kỳ 2015 – 2020 và Đại hội lần thứ XII của Đảng.
Năm là, nguyên tắc tập trung dân chủ tiếp tục được cụ thể hoá nhằm xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành một số văn bản quan trọng về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã tiến hành rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định đã có cho phù hợp; đồng thời ban hành một số quy chế, quy định mới nhằm phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng và đề cao trách nhiệm, thẩm quyền của người đứng đầu; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa cấp ủy, ban thường vụ và thường trực cấp ủy; thực hiện quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội; đã thực hiện việc chất vấn trong các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương và cấp ủy các cấp. Triển khai thực hiện Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội; Quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Nhiều cấp ủy đã coi trọng cải tiến phong cách, lề lối làm việc, đổi mới việc ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết; coi trọng việc sơ kết, tổng kết thực hiện các nghị quyết của cấp trên và của cấp mình; tích cực cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy.
Sáu là, quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 được kết hợp chặt chẽ với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã đem lại một số kết quả cụ thể, thiết thực. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được tăng cường và đẩy mạnh hơn. Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định thành lập lại Ban Nội chính Trung ương; kiện toàn Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban và tập trung chỉ đạo quyết liệt vấn đề này. Do vậy, nhiều văn bản chỉ đạo về đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được thể chế hóa bằng pháp luật; nhiều vụ việc tham nhũng lớn, nghiêm trọng và phức tạp kéo dài ở Trung ương và các địa phương đã sớm được điều tra, khởi tố, truy tố và xét xử công khai với những bản án nghiêm khắc dành cho các bị cáo, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, tin tưởng vào quyết tâm đấu tranh, đẩy lùi tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta.
Như vậy, trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức; tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến nhanh và phức tạp, những chuyển biến tích cực về công tác xây dựng Đảng qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh; bảo đảm an sinh xã hội và thúc đẩy thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; góp phần quan trọng vào sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Mặt khác, cũng qua chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, các cấp ủy, tổ chức đảng đã tích lũy thêm kinh nghiệm về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới hiện nay.
Có được những kết quả nêu trên là do: Nghị quyết Trung ương 4 là một chủ trương đúng đắn, kịp thời, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, tích cực tham gia. Trong quá trình thực hiện Nghị quyết, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, bài bản, khoa học, cụ thể với quyết tâm chính trị cao và có một số đổi mới về nội dung, cách làm so với trước, đem lại hiệu quả cụ thể, thiết thực. Có sự tham gia tích cực của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở các cấp; sự gương mẫu, nghiêm túc, tự giác trong kiểm điểm, tự phê bình, phê bình và sửa chữa khuyết điểm của tập thể, cá nhân các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư là tấm gương để cấp dưới và cán bộ, đảng viên học tập, noi theo.
Một số hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục:
Bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 còn bộc lộ một số mặt hạn chế, khuyết điểm cần rút kinh nghiệm sau đây:
Một là, một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng; chưa thấy rõ ý nghĩa của việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 trong tình hình mới. Vì vậy, trong quá trình chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình tập thể, cá nhân còn nêu nhiều ưu điểm, né tránh khuyết điểm và chưa nhận thức đúng mức trách nhiệm của mình đối với các nhiệm vụ được phân công và trong những hạn chế, khuyết điểm chung của tập thể.
Hai là, qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, một số vấn đề nổi cộm, bức xúc mà dư luận quan tâm như: Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, cục bộ, “lợi ích nhóm”… vẫn chưa làm rõ được thực chất và mức độ nghiêm trọng của tình hình; chưa chỉ ra được địa chỉ, đối tượng và trách nhiệm cụ thể. Tình trạng suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên tuy đã được đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi một bước nhưng vẫn đang tồn tại, thậm chí có mặt còn phát triển tinh vi, phức tạp hơn trước.
Ba là, sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình, một số nơi chậm đề ra kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm hoặc xây dựng kế hoạch còn chung chung, thiếu những giải pháp cụ thể, mạnh mẽ, đồng bộ, khả thi. Khi đưa việc kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 trở thành thường xuyên, gắn với kiểm điểm công tác cuối năm, nhiều cấp ủy chỉ đạo chưa chặt chẽ; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bệnh thành tích còn xảy ra khá phổ biến ở các cấp.
Bốn là, trong quá trình thực hiện Nghị quyết, việc ban hành một số quy định, quy chế, hướng dẫn trên một số lĩnh vực còn chậm và chưa đồng bộ; một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện. Một số vụ việc nổi cộm, phức tạp để kéo dài, chưa được xử lý kịp thời, dứt điểm và nghiêm khắc, gây bức xúc trong Đảng và trong xã hội.
Năm là, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở một số nơi còn hình thức, mang tính phong trào, chưa trở thành công việc cụ thể, thiết thực hàng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Công tác thông tin, tuyên truyền, định hướng dư luận về kết quả thực hiện Nghị quyết có lúc còn hạn chế, thiếu kịp thời.
Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên là do: Những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay là những vấn đề lớn, khó và phức tạp, trong đó có những vấn đề lớn đã tồn đọng kéo dài qua nhiều năm, nhiều nhiệm kỳ và liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đòi hỏi phải có thời gian mới có thể khắc phục, giải quyết được. Công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thực hiện Nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa thường xuyên, chặt chẽ và thiếu kiên quyết. Một bộ phận cán bộ, đảng viên tính chiến đấu yếu, chưa gương mẫu, tự giác thực hiện, thậm chí còn nghi ngờ, thiếu tin tưởng vào kết quả thực hiện Nghị quyết.
Một số kinh nghiệm trong chỉ đạo thực hiện Nghị quyết:
(1). Trung ương đã lựa chọn đúng và trúng các vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay để ra Nghị quyết phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Khi có Nghị quyết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, sâu sát, cụ thể, với quyết tâm chính trị cao ngay từ khi tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết. Các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, nhất là người đứng đầu gương mẫu, tự giác thực hiện, có tác dụng làm gương cho cấp dưới và đảng viên học tập, noi theo.
(2). Việc chỉ đạo thực hiện Nghị quyết được tiến hành bài bản, khoa học, chặt chẽ, thận trọng; ba vấn đề cấp bách và 4 nhóm giải pháp nêu trong Nghị quyết đã được thể chế hóa, cụ thể hóa bằng các quy định, quy chế, quyết định, hướng dẫn của Trung ương tương đối kịp thời, đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực hiện ở các cấp. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo các cơ quan Trung ương đều xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện nghiêm túc, có sự phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, phù hợp với tình hình của địa phương, cơ quan, đơn vị.
(3). Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình tập thể, cá nhân ở các cấp được chỉ đạo chặt chẽ, nghiêm túc, với một số nội dung và cách làm mới so với các lần kiểm điểm trước đây đã đem lại hiệu quả cụ thể, thiết thực, như: Lấy ý kiến góp ý trước kiểm điểm; kiểm điểm từ trên xuống dưới và nêu cao vai trò gương mẫu của người đứng đầu; cấp trên rà soát, gợi ý kiểm điểm đối với cấp dưới có vấn đề nổi cộm; sau kiểm điểm có kết luận ưu, khuyết điểm của tập thể, cá nhân và các tập thể, cá nhân phải xây dựng kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm; cấp ủy cấp trên đánh giá kết quả kiểm điểm của cấp dưới…
(4). Việc chuẩn bị, xem xét, thông qua các đề án, cơ chế, chính sách thực hiện Nghị quyết được tiến hành khẩn trương, chu đáo, đảm bảo chất lượng và kịp thời bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện những chủ trương đã ban hành nhưng chưa phù hợp với thực tiễn. Trong quá trình triển khai, thực hiện Nghị quyết, các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu phải thường xuyên chỉ đạo, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện; định kỳ đánh giá và rút kinh nghiệm kịp thời.
II. THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4 KHÓA XI
Qua hơn 4 năm thực hiện, Đại hội XII của Đảng nhận định: “Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng; có tác động thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội, củng cố thêm niềm tin trong Đảng và nhân dân”.
Về vấn đề cấp bách thứ nhất: Để thực hiện vấn đề này, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp và thực hiện có kết quả một số nội dung sau:
1- Việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình
Việc kiểm điểm tập thể và cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư được Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) đánh giá: Cơ bản đạt yêu cầu. Việc kiểm điểm tập thể và cá nhân ở các cấp được đánh giá: Cơ bản đạt yêu cầu, trong đó có một số tập thể và cá nhân phải kiểm điểm bổ sung hoặc kiểm điểm lại. Thông qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình ở các cấp theo Nghị quyết Trung ương 4 đã tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm và góp phần làm trong sạch Đảng. Trong 5 năm (chủ yếu là 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4), toàn Đảng đã xử lý kỷ luật gần1.400 tổ chức đảng và hơn 74.000 đảng viên ở các cấp. Trong số bị kỷ luật, có 82 tỉnh ủy viên và tương đương; hơn 1.500 huyện ủy viên và tương đương; gần 3.000 đảng viên bị kỷ luật bằng hình thức cách chức; hơn 8.700 bị khai trừ ra khỏi Đảng và hơn 4.300 cán bộ, đảng viên phải xử lý bằng pháp luật. Những hạn chế, khuyết điểm được kết luận sau kiểm điểm, tự phê bình và phê bình ở các cấp đã kịp thời giải quyết, xử lý dứt điểm được một số vụ việc nổi cộm, bức xúc trong dư luận ở các địa phương, cơ quan, đơn vị, góp phần củng cố thêm niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng và sự lãnh đạo của Đảng được nâng lên.
Qua kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và kiểm điểm hằng năm, nhiều đồng chí nhận diện rõ hơn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống như: Trong công tác và sinh hoạt còn nể nang, né tránh, ngại va chạm, “dễ người, dễ ta”, “dĩ hòa vi quý”, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; còn nể nang, né tránh trong đấu tranh phê bình, góp ý với đồng chí, nhất là với lãnh đạo; chưa hết lòng hết sức vì công việc, vì dân, chưa làm tròn bổn phận, chức trách, nhiệm vụ được giao; còn tư tưởng chưa thực sự yên tâm công tác, chưa gắn bó lâu dài với cơ quan, ngại khó, ngại khổ, chọn việc dễ, bỏ việc khó, làm việc cầm chừng, hiệu quả thấp, chọn việc có nhiều điều kiện, cơ hội phát triển, thăng tiến hoặc thu được nhiều lợi ích, có thu nhập cao; thích làm việc ở cơ quan nhà nước, không thích làm việc ở cơ quan của Đảng, Quốc hội, đoàn thể chính trị xã hội, thích làm việc ở gần nhà, không muốn nhận nhiệm vụ ở nơi xa, có nhiều khó khăn, gian khổ, điều kiện khắc nghiệt; trông chờ, ỷ lại cấp trên, sa sút ý chí, thờ ơ, vô cảm trước nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, dao động trước khó khăn… một số cán bộ, đảng viên có lối sống thực dụng, tư tưởng bình quân chủ nghĩa, đoàn kết xuôi chiều; ý thức tổ chức, kỷ luật chưa nghiêm; khi nghỉ hưu, nghỉ công tác tự bỏ sinh hoạt hoặc xin miễn sinh hoạt; có một số đảng viên là hội viên hội cựu chiến binh có biểu hiện công thần, bảo thủ, thiếu gương mẫu về phẩm chất đạo đức, lối sống.
2- Về lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm cao và đạt một số kết quả bước đầu:
– Ban Chấp hành Trung ương quyết định tái lập Ban Nội chính Trung ương và Ban Nội chính các tỉnh ủy, thành ủy để tham mưu cho các cấp ủy về công tác nội chính, đồng thời là cơ quan Thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.
– Bộ Chính trị đã quyết định: Thành lập Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng với thành phần phù hợp hơn và chọn khâu đột phá là: đẩy mạnh tiến độ, xử lý nghiêm minh các vụ án, vụ việc tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp mà dư luận xã hội đặc biệt quan tâm; Ban hành Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng; Quy định về công tác kiểm tra, giám sát đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý;…
– Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tăng cường chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán; cho chủ trương chuyển nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp cho cơ quan chức năng điều tra, truy tố và xét xử công khai theo quy định của pháp luật (Năm 2012, Ban Chỉ đạo lập 7 đoàn kiểm tra ở 11 tỉnh, thành phố và 7 cơ quan Trung ương; bổ sung 43 vụ án, 25 vụ việc có dấu hiệu tham nhũng thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương theo dõi. Năm 2013, lập 4 đoàn kiểm tra, giám sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng lớn ở 8 tỉnh, thành phố. Năm 2014, kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng ở 7 bộ, ngành Trung ương. Năm 2015, lập 7 đoàn kiểm tra, giám sát, đôn đốc công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng tại 4 bộ và 10 tỉnh, thành phố).
– Quốc hội bổ sung, sửa đổi Luật phòng, chống tham nhũng; Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng. Ban cán sự đảng Chính phủ xây dựng Đề án “Tăng cường thực hiện và kiểm soát việc kê khai tài sản”. Các bộ, ngành Trung ương và địa phương bổ sung, sửa đổi, ban hành một số quy định, quy chế, cơ chế, chính sách về quản lý tài chính; chi tiêu, mua sắm tài sản công; quản lý và sử dụng xe công; về sử dụng ngân sách nhà nước trong việc đi công tác, học tập, nghiên cứu ở nước ngoài; quản lý vốn trong các doanh nghiệp nhà nước;…
Về vấn đề cấp bách thứ 2:
Thứ nhất, công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động và luân chuyển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương được đẩy mạnh, tạo sự chuyển biến mới có tính tích cực:
– Đã xây dựng và thực hiện có hiệu quả Đề án “Quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo”. Đây là lần đầu tiên Đảng ta tiến hành quy hoạch cán bộ cấp chiến lược theo một quy trình chặt chẽ, bài bản, khoa học, dân chủ và tạo được sự thống nhất cao, khắc phục một bước đáng kể tình trạng hẫng hụt về cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
– Thực hiện việc rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch ban chấp hành, ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương và lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương giai đoạn 2014 – 2016 và giai đoạn 2016 – 2021, phục vụ cho công tác chuẩn bị nhân sự đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015 – 2020 và Đại hội XII của Đảng.
– Trên cơ sở quy hoạch, Bộ Chính trị đã chỉ đạo: Tổ chức 2 lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho 154 đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XI; Tổ chức 6 lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp cho 511 đồng chí (cấp tỉnh có 231 đồng chí, các cơ quan Trung ương có 280 đồng chí; có 45 đồng chí nữ, 31 cán bộ người dân tộc thiểu số, 93 đồng chí trong lực lượng vũ trang); Tổ chức 3 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ theo chức danh cho hơn 170 đồng chí bí thư cấp ủy cấp huyện.
Qua đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XII của Đảng cho thấy: Hầu hết các đồng chí trúng cử Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XII và ban chấp hành, ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương đều nằm trong quy hoạch và được đào tạo, bồi dưỡng qua các lớp do Trung ương và địa phương tổ chức (Kết quả Đại hội các cấp: 100% học viên các lớp dự nguồn cao cấp công tác ở các địa phương được bầu vào ban thường vụ, phó bí thư và bí thư các tỉnh ủy, thành ủy, trong đó trên 75% số bí thư cấp ủy là học viên dự nguồn và trên 15% là cán bộ luân chuyển).
– Công tác điều động, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương được đẩy mạnh và tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, dân chủ, tạo được sự thống nhất cao giữa các cơ quan có liên quan ở Trung ương và các địa phương; giữa nơi cử cán bộ đi và nơi tiếp nhận cán bộ đến (đã thực hiện luân chuyển 54 đồng chí cán bộ diện Trung ương quản lý về địa phương và điều động 28 đồng chí công tác tại địa phương). Thông qua điều động, luân chuyển cán bộ, đã kịp thời bổ sung cán bộ cho những nơi khó khăn và góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn công tác, giúp cho cán bộ phát triển nhanh, toàn diện hơn, khắc phục một bước tình trạng hẫng hụt cán bộ.
Thứ hai, đã triển khai thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành viên cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội:
– Bộ Chính trị ban hành Quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với thành viên cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội. Tại Hội nghị Trung ương 10 (khoá XI), Ban Chấp hành Trung ương đã lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư.
– Quốc hội ban hành Nghị quyết về lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội đã lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh; tại kỳ họp thứ 8 đã lấy phiếu tín nhiệm đối với 50 chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn, được cử tri cả nước đánh giá cao.
Việc lấy phiếu tín nhiệm đã được thực hiện nghiêm túc, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan, đúng quy định của Trung ương; đã tạo được hiệu ứng dư luận xã hội tốt. Về cơ bản, kết quả lấy phiếu tín nhiệm đã phản ánh trung thực, khách quan mức độ tín nhiệm, năng lực thực tiễn của cán bộ. Đây là cơ sở quan trọng để cấp ủy nhận xét, đánh giá cán bộ được khách quan, chính xác hơn; giúp cho mỗi cán bộ tự soi xét bản thân, thấy được mức độ tín nhiệm của mình để phấn đấu vươn lên, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác được giao.
Về vấn đề cấp bách thứ 3:
Thực hiện vấn đề cấp bách thứ 3, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo thực hiện có kết quả một số nội dung sau:
Một là, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các ban, cơ quan đảng Trung ương sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới một số quy định, quy chế, hướng dẫn theo hướng đề cao hơn trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân như: Quy chế Bầu cử trong Đảng; Quy định về việc Lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Quy định về việc Chất vấn và Trả lời chất vấn trong Đảng; Quy chế Giám sát cán bộ, đảng viên diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; Quy định Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội,…
Hai là, Bộ Chính trị ban hành hướng dẫn thực hiện việc chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương; đồng thời, chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra Trung ương phối hợp với các ban đảng ở Trung ương hướng dẫn việc thực hiện chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp của ban chấp hành đảng bộ các cấp.
Ba là, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện quy chế làm việc của cấp ủy theo hướng xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của đồng chí bí thư, các đồng chí trong ban thường vụ và thường trực cấp ủy; sửa đổi, bổ sung quy định về phân cấp quản lý cán bộ; xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu,… Qua đó, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng đã có chuyển biến tích cực; khắc phục một bước tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng.
Một số nguyên nhân của kết quả đạt được
Những kết quả nêu trên, trước hết là do Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị xác định đúng và trúng những vấn đề cấp bách nhất của công tác xây dựng Đảng hiện nay; đáp ứng yêu cầu thực tiễn và phù hợp với nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; được đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực tham gia.
Đảng ta xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; kịp thời phát hiện, xử lý những vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là tình trạng suy thoái trong Đảng, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên mà dư luận quan tâm. Đó là quyết tâm chính trị cao từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết. Các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các cấp, nhất là người đứng đầu nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu và chịu trách nhiệm trước cấp trên về tổ chức thực hiện Nghị quyết.
Việc triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết được chỉ đạo chặt chẽ, tiến hành một cách khoa học, phù hợp và có một số đổi mới về nội dung, cách làm, chương trình, kế hoạch thực hiện với tinh thần khẩn trương, nghiêm túc, phù hợp với điều kiện của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Quá trình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 đã kết hợp chặt chẽ với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; sự tham gia tích cực và sự phối hợp ngày càng hiệu quả giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; kết hợp đồng bộ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, với thanh tra của Chính phủ, kiểm toán của Nhà nước và công tác điều tra, khởi tố, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Nhất là công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết của các cấp ủy tiến hành thường xuyên hơn và có trọng tâm, trọng điểm (Năm 2012, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lập 5 đoàn kiểm tra tại 20 địa phương và cơ quan Trung ương về thực hiện Nghị quyết. Năm 2013, lập 18 đoàn kiểm tra tại 31 địa phương và cơ quan Trung ương về sửa chữa, khắc phục khuyết điểm. Năm 2014, lập 9 đoàn kiểm tra tại 18 địa phương và cơ quan Trung ương về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ). Đề cao tính tự giác, gương mẫu của cấp trên và người đứng đầu, đi đôi với giáo dục và xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm. Chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền về Nghị quyết một cách kịp thời.
Về những hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân
Đại hội XII của Đảng nhận định, bên cạnh những kết quả đạt được, trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 “một số việc chưa đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra” và còn có “một số hạn chế, khuyết điểm”. Cụ thể là:
Thứ nhất, một số nội dung Nghị quyết đề ra nhưng chưa thực hiện
Một số quy định, quy chế cần ban hành theo Kế hoạch số 08-KH/TW của Bộ Chính trị về thực hiện Nghị quyết nhưng vẫn chưa được ban hành, như: Quy chế dân chủ trong Đảng; Quy chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng; Quy định thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trong công tác cán bộ; quy định về xử lý trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao;…
Một số nội dung về công tác cán bộ nêu trong Nghị quyết, nhưng chưa thực hiện được. Như công tác đánh giá cán bộ, việc xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá theo chức danh cán bộ. Việc xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng người tài để tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ tham mưu, chuyên gia cấp chiến lược. Việc thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện không phải người địa phương. Cải cách chế độ tiền lương, nhà ở, chống bình quân, cào bằng, đồng thời chống đặc quyền, đặc lợi; chủ động thay thế những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, tín nhiệm thấp không chờ đến hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác….
Thứ hai, trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn khá phổ biến ở các cấp; còn có biểu hiện chủ quan, làm lướt. Trên một số vấn đề, qua kiểm điểm từ Trung ương đến cơ sở vẫn chưa làm rõ được thực chất, mức độ nghiêm trọng của tình hình; chưa chỉ ra được địa chỉ cụ thể và trách nhiệm của tập thể, cá nhân, như: tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tình trạng chạy chức, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy luân chuyển,…
Sau kiểm điểm, một số cấp ủy, tổ chức đảng vẫn chậm xây dựng kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm hoặc xây dựng kế hoạch còn chung chung, chưa gắn việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm của tập thể với các cá nhân. Việc chỉ đạo sửa chữa, khắc phục khuyết điểm ở một số nơi chưa đồng bộ, thiếu kiên quyết; việc xem xét, xử lý đối với một số trường hợp vi phạm chưa kịp thời, nghiêm minh. Một số vụ việc gây bức xúc trong Đảng và trong xã hội, nhưng việc xử lý, giải quyết còn chậm so với yêu cầu.
Thứ ba, việc thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu, chưa có những giải pháp mạnh mẽ, toàn diện, quyết liệt, nên hiệu quả chưa cao. Việc tự phát hiện tham nhũng, lãng phí của các địa phương, cơ quan, đơn vị còn rất hạn chế; cá biệt có trường hợp còn bao che cho đối tượng sai phạm; một số trường hợp vi phạm xử lý chưa nghiêm, thiếu tính giáo dục, răn đe. Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận. Việc thu hồi, xử lý tài sản tham nhũng còn rất ít, chưa đạt yêu cầu.
Thứ tư, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn đang tồn tại, chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến dưới những hình thức mới, tinh vi, phức tạp hơn. Một số ít cán bộ, đảng viên bị các phần tử xấu lợi dụng lôi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưởng, hành động, việc làm chống đối Đảng, Nhà nước.
Thứ năm, việc kê khai tài sản, công khai tài sản, thu nhập của cán bộ còn hình thức và không đúng thực chất. Kết quả kiểm soát, xác minh việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập còn rất hạn chế, chưa phát hiện và xử lý được nhiều trường hợp vi phạm trong việc kê khai tài sản, thu nhập (Năm 2012 có 113.436 người kê khai, phát hiện 3 người kê khai không trung thực; năm 2013, có gần 1 triệu người kê khai, chỉ phát hiện 5 người kê khai không trung thực).
Thứ sáu, chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý còn bất cập, chưa kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa nguồn cán bộ quy hoạch của các bộ, ngành Trung ương với các địa phương. Công tác đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có giải pháp cụ thể để khắc phục; tình trạng nể nang, né tránh trách nhiệm hoặc ngại va chạm trong đánh giá cán bộ vẫn còn khá phổ biến.
Thứ bảy, việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế chưa có chuyển biến rõ; tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị còn cồng kềnh, chưa hợp lý; bộ máy và biên chế của nhiều cơ quan, đơn vị chưa tinh gọn; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác còn chồng chéo, trách nhiệm cá nhân không rõ; việc thi tuyển cán bộ, công chức còn hình thức, chất lượng thấp, thậm chí còn xảy ra tiêu cực.
Nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 trong thời gian tới
Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Trong những năm tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI”.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra 10 nhiệm vụ về xây dựng Đảng và xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ, trong đó, 2 nhiệm vụ trọng tâm liên quan đến thực hiện 3 vấn đề cấp bách mà Nghị quyết Trung ương 4 đề ra, đó là: (1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. (2) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. (3) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. (Đây là 3 Đề án về công tác tổ chức xây dựng Đảng được xác định trong Chương trình làm việc toàn khóa và sẽ trình ra Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 4, 6, 7 khóa XII).
Để đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) gắn với thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm về xây dựng Đảng mà Nghị quyết Đại hội XII đã đề ra, trong thời gian tới, các cấp ủy, tổ chức đảng và lãnh đạo các cơ quan, đơn vị cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các nội dung sau:
Một là, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp rà soát việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 và kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị mình đã đề ra; chỉ rõ những việc đã làm được, những việc chưa làm và chưa làm tốt; kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung những nội dung cần thiết để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng cho phù hợp, bảo đảm hiệu quả, thiết thực, nhất là những nội dung vừa qua chưa thực hiện được hoặc thực hiện chưa đạt yêu cầu đề ra và những vấn đề phức tạp, nổi cộm mới phát sinh.
Hai là, các cấp ủy, tổ chức đảng bổ sung, sửa đổi quy chế làm việc cho phù hợp với Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, nghị quyết của đại hội đảng bộ cấp mình và tình hình thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị; trong đó, chú ý làm rõ vai trò, trách nhiệm, thẩm quyền của tập thể và cá nhân người đứng đầu cấp ủy, đứng đầu đơn vị, tổ chức trong công tác cán bộ. Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 và Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị (khóa XI), gắn với thực hiện Quy định của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp.
Ba là, đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ; tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống cách mạng cho cán bộ, đảng viên; kiên quyết phê phán, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Kiên quyết, kịp thời đấu tranh với âm mưu, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta của các thế lực thù địch, phản động, các đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn chính trị.
Bốn là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí, hành động trong Đảng, giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Tiếp tục làm rõ và cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Kịp thời bổ sung, sửa đổi các quy định, quy chế, tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, nhất là việc lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp.
Năm là, tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa các nguyên tắc về công tác cán bộ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ giữa các khâu và liên thông giữa các cấp; đẩy mạnh quy hoạch cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ sau quy hoạch. Đổi mới phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, nhất là người đứng đầu theo hướng công khai, dân chủ, minh bạch; đẩy mạnh thực hiện việc bố trí một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương. Tiếp tục thí điểm bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã. Sơ kết rút kinh nghiệm để có chủ trương về việc đại hội đảng bộ từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở trực tiếp bầu bí thư cấp ủy có số dư.
Sáu là, xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài để xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, có phẩm chất và uy tín, đủ năng lực, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp tục sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; thực hiện tinh giản biên chế cán bộ, công chức, viên chức; đẩy mạnh cải cách hành chính, chống bình quân, đặc quyền, đặc lợi; công khai chế độ, chính sách đối với cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nhân dân giám sát.
Bảy là, thực hiện nghiêm túc kiểm điểm tự phê bình và phê bình hằng năm trong các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, trọng tâm là kiểm tra việc sửa chữa, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm đã được chỉ ra qua kiểm điểm theo Nghị quyết, kiểm điểm hằng năm và những vấn đề phức tạp mới phát sinh.
Tám là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 một cách cụ thể, phù hợp, thiết thực. Chú trọng kiểm tra ở những nơi có vấn đề nổi cộm qua phản ánh của báo chí và nhân dân; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng phải gắn với kiểm tra cá nhân người đứng đầu; xử lý nghiêm minh các tổ chức đảng và đảng viên vi phạm.
Chín là, đẩy mạnh việc phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí bằng tổ chức, pháp luật, cơ chế, chính sách và nhiều biện pháp để “không muốn tham nhũng”, “không thể tham nhũng”, “không dám tham nhũng”. Quy định rõ việc kê khai, công khai và kiểm tra, xác minh về kê khai thu nhập, tài sản của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp để bảo đảm tính công khai, minh bạch. Có cơ chế để phát huy vai trò của nhân dân trong việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.
Mười là, cùng với việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, cần thực hiện một số nội dung về công tác tổ chức xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, như: Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”; Kết luận số 24-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo”; Kết luận số 64-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”…
III. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP 5 NĂM TỚI.
Năm năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học – công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh. Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á đã trở thành một cộng đồng, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa – kinh tế – chính trị chiến lược ngày càng quan trọng; đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông còn diễn ra gay gắt.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Nước ta sẽ thực hiện đầy đủ các cam kết trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước. Thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ “diễn biến hoà bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,…
Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một lòng, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu, các chỉ tiêu và nhiệm vụ sau:
Mục tiêu tổng quát:
Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Các chỉ tiêu quan trọng:
– Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt
6,5 – 7%/năm. Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng
3.200 – 3.500 USD; tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP khoảng 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 – 34% GDP; bội chi ngân sách nhà nước còn khoảng 4% GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30 – 35%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm; tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 – 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hoá đến năm 2020 đạt 38 – 40%.
– Về xã hội: Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 – 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; có 9 – 10 bác sĩ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 – 1,5%/năm.
– Về môi trường : Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95 – 100% chất thải y tế được xử lý; tỉ lệ che phủ rừng đạt 42%.
Các nhiệm vụ trọng tâm:
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, trên cơ sở quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc thực hiện các quan điểm, nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực đã nêu trong Báo cáo chính trị và Báo cáo kinh tế – xã hội, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững; đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả các nhiệm vụ trọng tâm sau:
(1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
(2) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
(3) Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
(4) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
(5) Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
(6) Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh.
Thành ủy Hà Nội có những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thực hiện đến năm 2020, đó là: Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của kinh tế TP, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, phát triển đô thị bền vững, bảo vệ môi trường ứng phó với biến đổi khí hậu. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, gắn với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ làm nền tảng phát triển nhanh các lĩnh vực KTXH. Phát triển y tế, thể dục – thể thao, văn hóa, xây dựng con người TP văn minh, hiện đại, nghĩa tình. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tăng cường quốc phòng – an ninh góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ, đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, làm cho chính quyền ngày càng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân tốt hơn. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Đảng bộ TP thực sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng cán bộ, đảng viên.
– Để Nghị quyết Đại hội XII của Đảng sớm đi vào cuộc sống của mỗi Đảng viên trong chi bộ nhà trường. Chúng ta cần phải xác định rõ mục tiêu quan trọng của Nghị quyết đại hội XII của Đảng là “Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”.
– Đi sâu phân tích và liên hệ thực tiễn địa phương trong thực hiện 6 nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Từ đó giúp Đảng viên và quần chúng nhân dân thấm nhuần và hiểu sâu sắc hơn nữa về nhiệm vụ của bản thân mình trong thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
– Trong Tổ chức thực hiện nghị quyết tôi nghĩ rằng các cấp ủy chỉ đạo học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện nghị quyết đại hội cần kết hợp với việc xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thiết thực để mỗi tập thể và cá nhân đều nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
– Nếu mỗi người chúng ta đều đồng tâm và nghiêm túc thực hiện nghị quyết đại hội XII của Đảng thì đất nước ta sẽ mau chóng nâng cao được vị thế của mình trên trường quốc tế.
Phường Nguyễn Trãi, ngày 8 tháng 8 năm 2016
Xác định tầm quan trọng đặc biệt của Nghị quyết Trung ương 4, ngay sau khi Nghị quyết ban hành, Bộ Chính trị đã ban hành chỉ thị, dự thảo Kế hoạch thực hiện và tổ chức Hội nghị cán bộ chủ chốt toàn quốc (với quy mô lớn nhất từ trước đến nay) để học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết do đồng chí Tổng Bí thư trực tiếp truyền đạt; mở hai Hội nghị với cán bộ cao cấp đã nghỉ hưu nguyên là ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng và tương đương để quán triệt Nghị quyết và thống nhất nội dung, cách tiến hành; mở các lớp nghiên cứu Nghị quyết cho cán bộ chủ chốt ở các cơ quan Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và chỉ đạo chặt chẽ, nghiêm túc việc học tập, quán triệt Nghị quyết ở các cấp, tạo sự thống nhất về nhận thức, ý chí, quyết tâm trong toàn Đảng về thực hiện Nghị quyết.Việc triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể với quyết tâm chính trị cao; ba nhiệm vụ cấp bách và bốn nhóm giải pháp nêu trong Nghị quyết đã được thể chế hoá, cụ thể hoá bằng các chỉ thị, kế hoạch, quyết định, quy định, quy chế, hướng dẫn của Trung ương tương đối kịp thời, đồng bộ và cụ thể, tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho việc triển khai, tổ chức thực hiện ở các cấp.Công tác chỉ đạo thực hiện Nghị quyết, nhất là việc chuẩn bị và tổ chức kiểm điểm, tự phê bình và phê bình trong Đảng có một số nội dung, cách làm mới, đem lại kết quả cụ thể, thiết thực như: Quá trình chuẩn bị kiểm điểm, cấp ủy các cấp lấy ý kiến góp ý kiểm điểm của các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc và cán bộ chủ chốt của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị đã nghỉ hưu bằng các hình thức phù hợp; cấp trên rà soát và gợi ý kiểm điểm đối với những tập thể, cá nhân có vấn đề nổi cộm, cần kiểm điểm sâu và phải có báo cáo giải trình; nơi nào chuẩn bị chưa đạt yêu cầu thì chưa được tiến hành kiểm điểm. Bộ Chính trị xác định 12 biểu hiện chủ yếu để xác định việc chuẩn bị và tổ chức kiểm điểm không đạt yêu cầu, làm cơ sở để cấp trên đánh giá kết quả kiểm điểm cấp dưới ở các cấp. Nội dung kiểm điểm chỉ tập trung vào 3 vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết, gắn với xem xét việc thực hiện các quy chế, quy định của Đảng; việc giải quyết những vấn đề bức xúc của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; liên hệ làm rõ những hạn chế, khuyết điểm, yếu kém đã chỉ ra nhiều năm nhưng chậm được khắc phục. Trình tự kiểm điểm được tiến hành từ trên xuống dưới, cấp trên kiểm điểm trước, cấp dưới kiểm điểm sau; tập thể kiểm điểm trước, cá nhân kiểm điểm sau; cấp trên dự và chỉ đạo việc kiểm điểm ở cấp dưới, nhất là đối với những tập thể, cá nhân được gợi ý kiểm điểm; trong quá trình kiểm điểm, vấn đề nào đã rõ thì kết luận ngay, vấn đề nào chưa rõ thì giao cho cơ quan chức năng thẩm tra, xem xét, làm rõ trước khi kết luận. Sau kiểm điểm, cấp ủy có kết luận bằng văn bản về những ưu, khuyết điểm chính của tập thể, cá nhân và mỗi tập thể, cá nhân đều phải xây dựng kế hoạch sửa chữa khắc phục khuyết điểm; kết quả kiểm điểm phải báo cáo trước hội nghị cấp ủy hoặc hội nghị cán bộ chủ chốt cùng cấp thảo luận, tham gia ý kiến và phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp đánh giá; tập thể, cá nhân nào kiểm điểm chưa đạt yêu cầu thì phải kiểm điểm bổ sung hoặc kiểm điểm lại; cấp ủy thông báo kết quả tiếp thu ý kiến đối với những tập thể, cá nhân đã đóng góp ý kiến trước kiểm điểm bằng các hình thức phù hợp.Trong quá trình chỉ đạo thực hiện Nghị quyết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát và đôn đốc việc thực hiện, nhất là trong quá trình chuẩn bị, tổ chức kiểm điểm và việc xây dựng, thực hiện kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm đã được kết luận qua tự phê bình và phê bình; định kỳ đánh giá kết quả rút kinh nghiệm và kịp thời bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện các quy chế, quy định cho phù hợp với thực tiễn.Với quan điểm khách quan, toàn diện và thái độ nghiêm túc, chúng ta có thể khẳng định rằng: Những kết quả qua 4 năm thực hiện Nghị quyết tuy chưa được như mong muốn, nhưng đã tạo được một số chuyển biến quan trọng bước đầu về công tác xây dựng Đảng, thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau đây:, góp phần củng cố, nâng cao và thống nhất nhận thức tư tưởng trong Đảng về tình hình Đảng và công tác xây dựng Đảng hiện nay. Thông qua việc tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương một cách nghiêm túc ở các cấp, đã trở thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng; giúp cho các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức về vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng; thấy rõ và sâu sắc ý nghĩa quan trọng, sự cần thiết phải thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 và nhận diện rõ hơn những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Từ đó, mỗi cán bộ, đảng viên xác định trách nhiệm của mình, nêu cao ý thức tự giác, gương mẫu trong việc thực hiện Nghị quyết.đã góp phần đấu tranh, ngăn chăn, đẩy lùi được một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Qua việc chuẩn bị và tổ chức kiểm điểm, tự phê bình, phê bình tập thể, cá nhân và lắng nghe, tiếp thu ý kiến góp ý trước kiểm điểm, là dịp để mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên tự nhìn nhận, soi xét lại bản thân mình, thấy rõ ưu điểm để phát huy và hạn chế, khuyết điểm để sửa chữa, khắc phục; đồng thời, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm, từ đó tự điều chỉnh nhận thức, hành vi của bản thân, của vợ (chồng), con và người thân. Qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, kết hợp với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; với công tác thanh tra, kiểm toán của Nhà nước và công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật, chỉ tính trong 3 năm (2012, 2013, 2014), toàn Đảng đã xử lý kỷ luật hơn 54.000 đảng viên ở các cấp và xóa tên, cho ra khỏi Đảng hàng nghìn trường hợp khác, đã có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe và phòng ngừa sai phạm; siết lại kỷ cương, kỷ luật, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi được một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, góp phần làm trong sạch nội bộ Đảng., đã kịp thời sửa chữa, khắc phục được một số hạn chế, khuyết điểm, yếu kém kéo dài trên một số lĩnh vực của công tác xây dựng Đảng. Sau kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên đều xây dựng và thực hiện kế hoạch sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm đã được kết luận qua tự phê bình và phê bình. Do vậy, một số hạn chế, khuyết điểm, yếu kém về công tác tổ chức cán bộ đã từng bước được khắc phục. Nhiều vụ, việc nổi cộm, bức xúc trong xã hội về quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; trong quản lý xây dựng, trật tự đô thị và một số vụ tranh chấp, khiếu kiện kéo dài đã được giải quyết. Nhiều cấp ủy đã quy định cụ thể về việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; quy định cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên phải tham dự sinh hoạt với chi bộ ở địa bàn dân cư định kỳ tiếp xúc, đối thoại với nhân dân tại cơ sở…, đã tạo được một số chuyển biến mới tích cực về công tác cán bộ, nhất là ở cấp Trung ương. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã rà soát, đánh giá và sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, nhất là đối với những cán bộ, đảng viên có khuyết điểm qua tự phê bình và phê bình hoặc tín nhiệm thấp. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp được tăng cường và đẩy mạnh hơn. Lần đầu tiên, Ban Chấp hành Trung ương đã xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Bộ Chính trị đã quyết định tổ chức 02 lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho hơn 150 đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; 06 lớp bồi dưỡng cán bộ dự nguồn cao cấp cho hơn 500 đồng chí; 03 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ theo chức danh cho hơn 170 đồng chí bí thư cấp ủy cấp huyện; điều động, luân chuyển và sắp xếp, bố trí lại nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức và trong quy hoạch ở Trung ương và các địa phương, phục vụ cho công tác chuẩn bị nhân sự đại hội đảng bộ cấp tỉnh nhiệm kỳ 2015 – 2020 và Đại hội lần thứ XII của Đảng., nguyên tắc tập trung dân chủ tiếp tục được cụ thể hoá nhằm xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành một số văn bản quan trọng về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã tiến hành rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định đã có cho phù hợp; đồng thời ban hành một số quy chế, quy định mới nhằm phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng và đề cao trách nhiệm, thẩm quyền của người đứng đầu; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa cấp ủy, ban thường vụ và thường trực cấp ủy; thực hiện quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội; đã thực hiện việc chất vấn trong các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương và cấp ủy các cấp. Triển khai thực hiện Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội; Quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Nhiều cấp ủy đã coi trọng cải tiến phong cách, lề lối làm việc, đổi mới việc ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết; coi trọng việc sơ kết, tổng kết thực hiện các nghị quyết của cấp trên và của cấp mình; tích cực cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy., quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 được kết hợp chặt chẽ với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã đem lại một số kết quả cụ thể, thiết thực. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được tăng cường và đẩy mạnh hơn. Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định thành lập lại Ban Nội chính Trung ương; kiện toàn Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban và tập trung chỉ đạo quyết liệt vấn đề này. Do vậy, nhiều văn bản chỉ đạo về đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được thể chế hóa bằng pháp luật; nhiều vụ việc tham nhũng lớn, nghiêm trọng và phức tạp kéo dài ở Trung ương và các địa phương đã sớm được điều tra, khởi tố, truy tố và xét xử công khai với những bản án nghiêm khắc dành cho các bị cáo, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, tin tưởng vào quyết tâm đấu tranh, đẩy lùi tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta.Như vậy, trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức; tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến nhanh và phức tạp, những chuyển biến tích cực về công tác xây dựng Đảng qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh; bảo đảm an sinh xã hội và thúc đẩy thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; góp phần quan trọng vào sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Mặt khác, cũng qua chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, các cấp ủy, tổ chức đảng đã tích lũy thêm kinh nghiệm về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới hiện nay.Có được những kết quả nêu trên là do: Nghị quyết Trung ương 4 là một chủ trương đúng đắn, kịp thời, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, tích cực tham gia. Trong quá trình thực hiện Nghị quyết, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, bài bản, khoa học, cụ thể với quyết tâm chính trị cao và có một số đổi mới về nội dung, cách làm so với trước, đem lại hiệu quả cụ thể, thiết thực. Có sự tham gia tích cực của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở các cấp; sự gương mẫu, nghiêm túc, tự giác trong kiểm điểm, tự phê bình, phê bình và sửa chữa khuyết điểm của tập thể, cá nhân các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư là tấm gương để cấp dưới và cán bộ, đảng viên học tập, noi theo.Bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 còn bộc lộ một số mặt hạn chế, khuyết điểm cần rút kinh nghiệm sau đây:, một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng; chưa thấy rõ ý nghĩa của việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 trong tình hình mới. Vì vậy, trong quá trình chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình tập thể, cá nhân còn nêu nhiều ưu điểm, né tránh khuyết điểm và chưa nhận thức đúng mức trách nhiệm của mình đối với các nhiệm vụ được phân công và trong những hạn chế, khuyết điểm chung của tập thể., qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, một số vấn đề nổi cộm, bức xúc mà dư luận quan tâm như: Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, cục bộ, “lợi ích nhóm”… vẫn chưa làm rõ được thực chất và mức độ nghiêm trọng của tình hình; chưa chỉ ra được địa chỉ, đối tượng và trách nhiệm cụ thể. Tình trạng suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên tuy đã được đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi một bước nhưng vẫn đang tồn tại, thậm chí có mặt còn phát triển tinh vi, phức tạp hơn trước., sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình, một số nơi chậm đề ra kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm hoặc xây dựng kế hoạch còn chung chung, thiếu những giải pháp cụ thể, mạnh mẽ, đồng bộ, khả thi. Khi đưa việc kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 trở thành thường xuyên, gắn với kiểm điểm công tác cuối năm, nhiều cấp ủy chỉ đạo chưa chặt chẽ; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bệnh thành tích còn xảy ra khá phổ biến ở các cấp., trong quá trình thực hiện Nghị quyết, việc ban hành một số quy định, quy chế, hướng dẫn trên một số lĩnh vực còn chậm và chưa đồng bộ; một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện. Một số vụ việc nổi cộm, phức tạp để kéo dài, chưa được xử lý kịp thời, dứt điểm và nghiêm khắc, gây bức xúc trong Đảng và trong xã hội., việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở một số nơi còn hình thức, mang tính phong trào, chưa trở thành công việc cụ thể, thiết thực hàng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Công tác thông tin, tuyên truyền, định hướng dư luận về kết quả thực hiện Nghị quyết có lúc còn hạn chế, thiếu kịp thời.Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên là do: Những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay là những vấn đề lớn, khó và phức tạp, trong đó có những vấn đề lớn đã tồn đọng kéo dài qua nhiều năm, nhiều nhiệm kỳ và liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đòi hỏi phải có thời gian mới có thể khắc phục, giải quyết được. Công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thực hiện Nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa thường xuyên, chặt chẽ và thiếu kiên quyết. Một bộ phận cán bộ, đảng viên tính chiến đấu yếu, chưa gương mẫu, tự giác thực hiện, thậm chí còn nghi ngờ, thiếu tin tưởng vào kết quả thực hiện Nghị quyết.(1). Trung ương đã lựa chọn đúng và trúng các vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay để ra Nghị quyết phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Khi có Nghị quyết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, sâu sát, cụ thể, với quyết tâm chính trị cao ngay từ khi tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết. Các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, nhất là người đứng đầu gương mẫu, tự giác thực hiện, có tác dụng làm gương cho cấp dưới và đảng viên học tập, noi theo.(2). Việc chỉ đạo thực hiện Nghị quyết được tiến hành bài bản, khoa học, chặt chẽ, thận trọng; ba vấn đề cấp bách và 4 nhóm giải pháp nêu trong Nghị quyết đã được thể chế hóa, cụ thể hóa bằng các quy định, quy chế, quyết định, hướng dẫn của Trung ương tương đối kịp thời, đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực hiện ở các cấp. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo các cơ quan Trung ương đều xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện nghiêm túc, có sự phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, phù hợp với tình hình của địa phương, cơ quan, đơn vị.(3). Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình tập thể, cá nhân ở các cấp được chỉ đạo chặt chẽ, nghiêm túc, với một số nội dung và cách làm mới so với các lần kiểm điểm trước đây đã đem lại hiệu quả cụ thể, thiết thực, như: Lấy ý kiến góp ý trước kiểm điểm; kiểm điểm từ trên xuống dưới và nêu cao vai trò gương mẫu của người đứng đầu; cấp trên rà soát, gợi ý kiểm điểm đối với cấp dưới có vấn đề nổi cộm; sau kiểm điểm có kết luận ưu, khuyết điểm của tập thể, cá nhân và các tập thể, cá nhân phải xây dựng kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm; cấp ủy cấp trên đánh giá kết quả kiểm điểm của cấp dưới…(4). Việc chuẩn bị, xem xét, thông qua các đề án, cơ chế, chính sách thực hiện Nghị quyết được tiến hành khẩn trương, chu đáo, đảm bảo chất lượng và kịp thời bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện những chủ trương đã ban hành nhưng chưa phù hợp với thực tiễn. Trong quá trình triển khai, thực hiện Nghị quyết, các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu phải thường xuyên chỉ đạo, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện; định kỳ đánh giá và rút kinh nghiệm kịp thời.Qua hơn 4 năm thực hiện, Đại hội XII của Đảng nhận định: “Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng; có tác động thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội, củng cố thêm niềm tin trong Đảng và nhân dân”.Để thực hiện vấn đề này, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp và thực hiện có kết quả một số nội dung sau:1- Việc kiểm điểm tự phê bình và phê bìnhViệc kiểm điểm tập thể và cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư được Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) đánh giá: Cơ bản đạt yêu cầu. Việc kiểm điểm tập thể và cá nhân ở các cấp được đánh giá: Cơ bản đạt yêu cầu, trong đó có một số tập thể và cá nhân phải kiểm điểm bổ sung hoặc kiểm điểm lại. Thông qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình ở các cấp theo Nghị quyết Trung ương 4 đã tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm và góp phần làm trong sạch Đảng. Trong 5 năm (chủ yếu là 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4), toàn Đảng đã xử lý kỷ luật gần1.400 tổ chức đảng và hơn 74.000 đảng viên ở các cấp. Trong số bị kỷ luật, có 82 tỉnh ủy viên và tương đương; hơn 1.500 huyện ủy viên và tương đương; gần 3.000 đảng viên bị kỷ luật bằng hình thức cách chức; hơn 8.700 bị khai trừ ra khỏi Đảng và hơn 4.300 cán bộ, đảng viên phải xử lý bằng pháp luật. Những hạn chế, khuyết điểm được kết luận sau kiểm điểm, tự phê bình và phê bình ở các cấp đã kịp thời giải quyết, xử lý dứt điểm được một số vụ việc nổi cộm, bức xúc trong dư luận ở các địa phương, cơ quan, đơn vị, góp phần củng cố thêm niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng và sự lãnh đạo của Đảng được nâng lên.Qua kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và kiểm điểm hằng năm, nhiều đồng chí nhận diện rõ hơn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống như: Trong công tác và sinh hoạt còn nể nang, né tránh, ngại va chạm, “dễ người, dễ ta”, “dĩ hòa vi quý”, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; còn nể nang, né tránh trong đấu tranh phê bình, góp ý với đồng chí, nhất là với lãnh đạo; chưa hết lòng hết sức vì công việc, vì dân, chưa làm tròn bổn phận, chức trách, nhiệm vụ được giao; còn tư tưởng chưa thực sự yên tâm công tác, chưa gắn bó lâu dài với cơ quan, ngại khó, ngại khổ, chọn việc dễ, bỏ việc khó, làm việc cầm chừng, hiệu quả thấp, chọn việc có nhiều điều kiện, cơ hội phát triển, thăng tiến hoặc thu được nhiều lợi ích, có thu nhập cao; thích làm việc ở cơ quan nhà nước, không thích làm việc ở cơ quan của Đảng, Quốc hội, đoàn thể chính trị xã hội, thích làm việc ở gần nhà, không muốn nhận nhiệm vụ ở nơi xa, có nhiều khó khăn, gian khổ, điều kiện khắc nghiệt; trông chờ, ỷ lại cấp trên, sa sút ý chí, thờ ơ, vô cảm trước nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, dao động trước khó khăn… một số cán bộ, đảng viên có lối sống thực dụng, tư tưởng bình quân chủ nghĩa, đoàn kết xuôi chiều; ý thức tổ chức, kỷ luật chưa nghiêm; khi nghỉ hưu, nghỉ công tác tự bỏ sinh hoạt hoặc xin miễn sinh hoạt; có một số đảng viên là hội viên hội cựu chiến binh có biểu hiện công thần, bảo thủ, thiếu gương mẫu về phẩm chất đạo đức, lối sống.2- Về lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phíCông tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm cao và đạt một số kết quả bước đầu:- Ban Chấp hành Trung ương quyết định tái lập Ban Nội chính Trung ương và Ban Nội chính các tỉnh ủy, thành ủy để tham mưu cho các cấp ủy về công tác nội chính, đồng thời là cơ quan Thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.- Bộ Chính trị đã quyết định: Thành lập Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng với thành phần phù hợp hơn và chọn khâu đột phá là: đẩy mạnh tiến độ, xử lý nghiêm minh các vụ án, vụ việc tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp mà dư luận xã hội đặc biệt quan tâm; Ban hành Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng; Quy định về công tác kiểm tra, giám sát đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý;…- Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tăng cường chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán; cho chủ trương chuyển nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp cho cơ quan chức năng điều tra, truy tố và xét xử công khai theo quy định của pháp luật (Năm, Ban Chỉ đạo lập 7 đoàn kiểm tra ở 11 tỉnh, thành phố và 7 cơ quan Trung ương; bổ sung 43 vụ án, 25 vụ việc có dấu hiệu tham nhũng thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương theo dõi. Năm, lập 4 đoàn kiểm tra, giám sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng lớn ở 8 tỉnh, thành phố. Năm, kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng ở 7 bộ, ngành Trung ương. Năm, lập 7 đoàn kiểm tra, giám sát, đôn đốc công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng tại 4 bộ và 10 tỉnh, thành phố).- Quốc hội bổ sung, sửa đổi Luật phòng, chống tham nhũng; Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng. Ban cán sự đảng Chính phủ xây dựng Đề án “Tăng cường thực hiện và kiểm soát việc kê khai tài sản”. Các bộ, ngành Trung ương và địa phương bổ sung, sửa đổi, ban hành một số quy định, quy chế, cơ chế, chính sách về quản lý tài chính; chi tiêu, mua sắm tài sản công; quản lý và sử dụng xe công; về sử dụng ngân sách nhà nước trong việc đi công tác, học tập, nghiên cứu ở nước ngoài; quản lý vốn trong các doanh nghiệp nhà nước;…Thứ nhất, công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động và luân chuyển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương được đẩy mạnh, tạo sự chuyển biến mới có tính tích cực:- Đã xây dựng và thực hiện có hiệu quả Đề án “Quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo”Đây là lần đầu tiên Đảng ta tiến hành quy hoạch cán bộ cấp chiến lược theo một quy trình chặt chẽ, bài bản, khoa học, dân chủ và tạo được sự thống nhất cao, khắc phục một bước đáng kể tình trạng hẫng hụt về cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.- Thực hiện việc rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch ban chấp hành, ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương và lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương giai đoạn 2014 – 2016 và giai đoạn 2016 – 2021, phục vụ cho công tác chuẩn bị nhân sự đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015 – 2020 và Đại hội XII của Đảng.- Trên cơ sở quy hoạch, Bộ Chính trị đã chỉ đạo: Tổ chức 2 lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho 154 đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XI; Tổ chức 6 lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp cho 511 đồng chí (cấp tỉnh có 231 đồng chí, các cơ quan Trung ương có 280 đồng chí; có 45 đồng chí nữ, 31 cán bộ người dân tộc thiểu số, 93 đồng chí trong lực lượng vũ trang); Tổ chức 3 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ theo chức danh cho hơn 170 đồng chí bí thư cấp ủy cấp huyện.Qua đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XII của Đảng cho thấy: Hầu hết các đồng chí trúng cử Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XII và ban chấp hành, ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương đều nằm trong quy hoạch và được đào tạo, bồi dưỡng qua các lớp do Trung ương và địa phương tổ chức (Kết quả Đại hội các cấp: 100% học viên các lớp dự nguồn cao cấp công tác ở các địa phương được bầu vào ban thường vụ, phó bí thư và bí thư các tỉnh ủy, thành ủy, trong đó trên 75% số bí thư cấp ủy là học viên dự nguồn và trên 15% là cán bộ luân chuyển).- Công tác điều động, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương được đẩy mạnh và tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, dân chủ, tạo được sự thống nhất cao giữa các cơ quan có liên quan ở Trung ương và các địa phương; giữa nơi cử cán bộ đi và nơi tiếp nhận cán bộ đến (đã thực hiện luân chuyển 54 đồng chí cán bộ diện Trung ương quản lý về địa phương và điều động 28 đồng chí công tác tại địa phương). Thông qua điều động, luân chuyển cán bộ, đã kịp thời bổ sung cán bộ cho những nơi khó khăn và góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn công tác, giúp cho cán bộ phát triển nhanh, toàn diện hơn, khắc phục một bước tình trạng hẫng hụt cán bộ.Thứ hai, đã triển khai thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành viên cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội:- Bộ Chính trị ban hành Quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với thành viên cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội. Tại Hội nghị Trung ương 10 (khoá XI), Ban Chấp hành Trung ương đã lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư.- Quốc hội ban hành Nghị quyết về lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội đã lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh; tại kỳ họp thứ 8 đã lấy phiếu tín nhiệm đối với 50 chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn, được cử tri cả nước đánh giá cao.Việc lấy phiếu tín nhiệm đã được thực hiện nghiêm túc, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan, đúng quy định của Trung ương; đã tạo được hiệu ứng dư luận xã hội tốt. Về cơ bản, kết quả lấy phiếu tín nhiệm đã phản ánh trung thực, khách quan mức độ tín nhiệm, năng lực thực tiễn của cán bộ. Đây là cơ sở quan trọng để cấp ủy nhận xét, đánh giá cán bộ được khách quan, chính xác hơn; giúp cho mỗi cán bộ tự soi xét bản thân, thấy được mức độ tín nhiệm của mình để phấn đấu vươn lên, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác được giao.Thực hiện vấn đề cấp bách thứ 3, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo thực hiện có kết quả một số nội dung sau:Một là, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các ban, cơ quan đảng Trung ương sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới một số quy định, quy chế, hướng dẫn theo hướng đề cao hơn trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân như: Quy chế Bầu cử trong Đảng; Quy định về việc Lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Quy định về việc Chất vấn và Trả lời chất vấn trong Đảng; Quy chế Giám sát cán bộ, đảng viên diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; Quy định Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội,…Hai là, Bộ Chính trị ban hành hướng dẫn thực hiện việc chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương; đồng thời, chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra Trung ương phối hợp với các ban đảng ở Trung ương hướng dẫn việc thực hiện chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp của ban chấp hành đảng bộ các cấp.Ba là, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện quy chế làm việc của cấp ủy theo hướng xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của đồng chí bí thư, các đồng chí trong ban thường vụ và thường trực cấp ủy; sửa đổi, bổ sung quy định về phân cấp quản lý cán bộ; xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu,… Qua đó, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng đã có chuyển biến tích cực; khắc phục một bước tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng.Những kết quả nêu trên, trước hết là do Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị xác định đúng và trúng những vấn đề cấp bách nhất của công tác xây dựng Đảng hiện nay; đáp ứng yêu cầu thực tiễn và phù hợp với nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; được đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực tham gia.Đảng ta xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; kịp thời phát hiện, xử lý những vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là tình trạng suy thoái trong Đảng, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên mà dư luận quan tâm. Đó là quyết tâm chính trị cao từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết. Các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các cấp, nhất là người đứng đầu nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu và chịu trách nhiệm trước cấp trên về tổ chức thực hiện Nghị quyết.Việc triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết được chỉ đạo chặt chẽ, tiến hành một cách khoa học, phù hợp và có một số đổi mới về nội dung, cách làmchương trình, kế hoạch thực hiện với tinh thần khẩn trương, nghiêm túc, phù hợp với điều kiện của địa phương, cơ quan, đơn vị.Quá trình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 đã kết hợp chặt chẽ với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; sự tham gia tích cực và sự phối hợp ngày càng hiệu quả giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; kết hợp đồng bộ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, với thanh tra của Chính phủ, kiểm toán của Nhà nước và công tác điều tra, khởi tố, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Nhất là công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết của các cấp ủy tiến hành thường xuyên hơn và có trọng tâm, trọng điểm (Năm 2012, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lập 5 đoàn kiểm tra tại 20 địa phương và cơ quan Trung ương về thực hiện Nghị quyết. Năm 2013, lập 18 đoàn kiểm tra tại 31 địa phương và cơ quan Trung ương về sửa chữa, khắc phục khuyết điểm. Năm 2014, lập 9 đoàn kiểm tra tại 18 địa phương và cơ quan Trung ương về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ). Đề cao tính tự giác, gương mẫu của cấp trên và người đứng đầu, đi đôi với giáo dục và xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm. Chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền về Nghị quyết một cách kịp thời.Đại hội XII của Đảng nhận định, bên cạnh những kết quả đạt được, trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 “một số việc chưa đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra” và còn có “một số hạn chế, khuyết điểm”. Cụ thể là:Thứ nhất, một số nội dung Nghị quyết đề ra nhưng chưa thực hiệnMột số quy định, quy chế cần ban hành theo Kế hoạch số 08-KH/TW của Bộ Chính trị về thực hiện Nghị quyết nhưng vẫn chưa được ban hành, như: Quy chế dân chủ trong Đảng; Quy chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng; Quy định thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trong công tác cán bộ; quy định về xử lý trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao;…Một số nội dung về công tác cán bộ nêu trong Nghị quyết, nhưng chưa thực hiện được. Như công tác đánh giá cán bộ, việc xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá theo chức danh cán bộ. Việc xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng người tài để tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ tham mưu, chuyên gia cấp chiến lược. Việc thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện không phải người địa phương. Cải cách chế độ tiền lương, nhà ở, chống bình quân, cào bằng, đồng thời chống đặc quyền, đặc lợi; chủ động thay thế những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, tín nhiệm thấp không chờ đến hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác….Thứ hai, trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn khá phổ biến ở các cấp; còn có biểu hiện chủ quan, làm lướt. Trên một số vấn đề, qua kiểm điểm từ Trung ương đến cơ sở vẫn chưa làm rõ được thực chất, mức độ nghiêm trọng của tình hình; chưa chỉ ra được địa chỉ cụ thể và trách nhiệm của tập thể, cá nhân, như: tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tình trạng chạy chức, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy luân chuyển,…Sau kiểm điểm, một số cấp ủy, tổ chức đảng vẫn chậm xây dựng kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm hoặc xây dựng kế hoạch còn chung chung, chưa gắn việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm của tập thể với các cá nhân. Việc chỉ đạo sửa chữa, khắc phục khuyết điểm ở một số nơi chưa đồng bộ, thiếu kiên quyết; việc xem xét, xử lý đối với một số trường hợp vi phạm chưa kịp thời, nghiêm minh. Một số vụ việc gây bức xúc trong Đảng và trong xã hội, nhưng việc xử lý, giải quyết còn chậm so với yêu cầu.Thứ ba, việc thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu, chưa có những giải pháp mạnh mẽ, toàn diện, quyết liệt, nên hiệu quả chưa cao. Việc tự phát hiện tham nhũng, lãng phí của các địa phương, cơ quan, đơn vị còn rất hạn chế; cá biệt có trường hợp còn bao che cho đối tượng sai phạm; một số trường hợp vi phạm xử lý chưa nghiêm, thiếu tính giáo dục, răn đe. Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận. Việc thu hồi, xử lý tài sản tham nhũng còn rất ít, chưa đạt yêu cầu.Thứ tư, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn đang tồn tại, chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến dưới những hình thức mới, tinh vi, phức tạp hơn. Một số ít cán bộ, đảng viên bị các phần tử xấu lợi dụng lôi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưởng, hành động, việc làm chống đối Đảng, Nhà nước.Thứ năm, việc kê khai tài sản, công khai tài sản, thu nhập của cán bộ còn hình thức và không đúng thực chất. Kết quả kiểm soát, xác minh việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập còn rất hạn chế, chưa phát hiện và xử lý được nhiều trường hợp vi phạm trong việc kê khai tài sản, thu nhập (Năm 2012 có 113.436 người kê khai, phát hiện 3 người kê khai không trung thực; năm 2013, có gần 1 triệu người kê khai, chỉ phát hiện 5 người kê khai không trung thực).Thứ sáu, chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý còn bất cập, chưa kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa nguồn cán bộ quy hoạch của các bộ, ngành Trung ương với các địa phương. Công tác đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có giải pháp cụ thể để khắc phục; tình trạng nể nang, né tránh trách nhiệm hoặc ngại va chạm trong đánh giá cán bộ vẫn còn khá phổ biến.Thứ bảy, việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế chưa có chuyển biến rõ; tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị còn cồng kềnh, chưa hợp lý; bộ máy và biên chế của nhiều cơ quan, đơn vị chưa tinh gọn; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác còn chồng chéo, trách nhiệm cá nhân không rõ; việc thi tuyển cán bộ, công chức còn hình thức, chất lượng thấp, thậm chí còn xảy ra tiêu cực.Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Trong những năm tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI”.Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra 10 nhiệm vụ về xây dựng Đảng và xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ, trong đó, 2 nhiệm vụ trọng tâm liên quan đến thực hiện 3 vấn đề cấp bách mà Nghị quyết Trung ương 4 đề ra, đó là: (1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. (2) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. (3) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. (Đây là 3 Đề án về công tác tổ chức xây dựng Đảng được xác định trong Chương trình làm việc toàn khóa và sẽ trình ra Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 4, 6, 7 khóa XII).Để đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) gắn với thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm về xây dựng Đảng mà Nghị quyết Đại hội XII đã đề ra, trong thời gian tới, các cấp ủy, tổ chức đảng và lãnh đạo các cơ quan, đơn vị cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các nội dung sau:Một là, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp rà soát việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 và kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị mình đã đề ra; chỉ rõ những việc đã làm được, những việc chưa làm và chưa làm tốt; kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung những nội dung cần thiết để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng cho phù hợp, bảo đảm hiệu quả, thiết thực, nhất là những nội dung vừa qua chưa thực hiện được hoặc thực hiện chưa đạt yêu cầu đề ra và những vấn đề phức tạp, nổi cộm mới phát sinh.Hai là, các cấp ủy, tổ chức đảng bổ sung, sửa đổi quy chế làm việc cho phù hợp với Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, nghị quyết của đại hội đảng bộ cấp mình và tình hình thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị; trong đó, chú ý làm rõ vai trò, trách nhiệm, thẩm quyền của tập thể và cá nhân người đứng đầu cấp ủy, đứng đầu đơn vị, tổ chức trong công tác cán bộ. Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 và Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị (khóa XI), gắn với thực hiện Quy định của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp.Ba là, đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ; tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống cách mạng cho cán bộ, đảng viên; kiên quyết phê phán, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Kiên quyết, kịp thời đấu tranh với âm mưu, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta của các thế lực thù địch, phản động, các đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn chính trị.Bốn là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí, hành động trong Đảng, giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Tiếp tục làm rõ và cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Kịp thời bổ sung, sửa đổi các quy định, quy chế, tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, nhất là việc lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp.Năm là, tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa các nguyên tắc về công tác cán bộ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ giữa các khâu và liên thông giữa các cấp; đẩy mạnh quy hoạch cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ sau quy hoạch. Đổi mới phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, nhất là người đứng đầu theo hướng công khai, dân chủ, minh bạch; đẩy mạnh thực hiện việc bố trí một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương. Tiếp tục thí điểm bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã. Sơ kết rút kinh nghiệm để có chủ trương về việc đại hội đảng bộ từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở trực tiếp bầu bí thư cấp ủy có số dư.Sáu là, xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài để xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, có phẩm chất và uy tín, đủ năng lực, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mớiTiếp tục sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; thực hiện tinh giản biên chế cán bộ, công chức, viên chức; đẩy mạnh cải cách hành chính, chống bình quân, đặc quyền, đặc lợi; công khai chế độ, chính sách đối với cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nhân dân giám sát.Bảy là, thực hiện nghiêm túc kiểm điểm tự phê bình và phê bình hằng năm trong các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, trọng tâm là kiểm tra việc sửa chữa, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm đã được chỉ ra qua kiểm điểm theo Nghị quyết, kiểm điểm hằng năm và những vấn đề phức tạp mới phát sinh.Tám là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 một cách cụ thể, phù hợp, thiết thực. Chú trọng kiểm tra ở những nơi có vấn đề nổi cộm qua phản ánh của báo chí và nhân dân; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng phải gắn với kiểm tra cá nhân người đứng đầu; xử lý nghiêm minh các tổ chức đảng và đảng viên vi phạm.Chín là, đẩy mạnh việc phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí bằng tổ chức, pháp luật, cơ chế, chính sách và nhiều biện pháp để “không muốn tham nhũng”, “không thể tham nhũng”, “không dám tham nhũng”. Quy định rõ việc kê khai, công khai và kiểm tra, xác minh về kê khai thu nhập, tài sản của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp để bảo đảm tính công khai, minh bạch. Có cơ chế để phát huy vai trò của nhân dân trong việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.Mười là, cùng với việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, cần thực hiện một số nội dung về công tác tổ chức xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, như: Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”; Kết luận số 24-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo”; Kết luận số 64-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”…Năm năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học – công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh. Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á đã trở thành một cộng đồng, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa – kinh tế – chính trị chiến lược ngày càng quan trọng; đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông còn diễn ra gay gắt.Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Nước ta sẽ thực hiện đầy đủ các cam kết trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước. Thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ “diễn biến hoà bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,…Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một lòng, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu, các chỉ tiêu và nhiệm vụ sau:Mục tiêu tổng quát:Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.- Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt6,5 – 7%/năm. Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng3.200 – 3.500 USD; tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP khoảng 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 – 34% GDP; bội chi ngân sách nhà nước còn khoảng 4% GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30 – 35%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm; tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 – 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hoá đến năm 2020 đạt 38 – 40%.- Về xã hội: Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 – 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; có 9 – 10 bác sĩ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 – 1,5%/năm.- Về môi trường : Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95 – 100% chất thải y tế được xử lý; tỉ lệ che phủ rừng đạt 42%.Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, trên cơ sở quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc thực hiện các quan điểm, nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực đã nêu trong Báo cáo chính trị và Báo cáo kinh tế – xã hội, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững; đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả các nhiệm vụ trọng tâm sau:(1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.(2) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.(3) Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.(4) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.(5) Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.(6) Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh.Thành ủy Hà Nội có những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thực hiện đến năm 2020, đó là: Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của kinh tế TP, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, phát triển đô thị bền vững, bảo vệ môi trường ứng phó với biến đổi khí hậu. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, gắn với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ làm nền tảng phát triển nhanh các lĩnh vực KTXH. Phát triển y tế, thể dục – thể thao, văn hóa, xây dựng con người TP văn minh, hiện đại, nghĩa tình. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tăng cường quốc phòng – an ninh góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ, đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, làm cho chính quyền ngày càng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân tốt hơn. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Đảng bộ TP thực sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng cán bộ, đảng viên.- Để Nghị quyết Đại hội XII của Đảng sớm đi vào cuộc sống của mỗi Đảng viên trong chi bộ nhà trường. Chúng ta cần phải xác định rõ mục tiêu quan trọng của Nghị quyết đại hội XII của Đảng là “Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”.- Đi sâu phân tích và liên hệ thực tiễn địa phương trong thực hiện 6 nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Từ đó giúp Đảng viên và quần chúng nhân dân thấm nhuần và hiểu sâu sắc hơn nữa về nhiệm vụ của bản thân mình trong thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.- Trong Tổ chức thực hiện nghị quyết tôi nghĩ rằng các cấp ủy chỉ đạo học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện nghị quyết đại hội cần kết hợp với việc xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thiết thực để mỗi tập thể và cá nhân đều nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.- Nếu mỗi người chúng ta đều đồng tâm và nghiêm túc thực hiện nghị quyết đại hội XII của Đảng thì đất nước ta sẽ mau chóng nâng cao được vị thế của mình trên trường quốc tế.Phường Nguyễn Trãi, ngày 8 tháng 8 năm 2016