Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 16 – Tài liệu text

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 16

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.87 KB, 20 trang )

<span class=’text_page_counter’>(1)</span><div class=’page_container’ data-page=1>

<b>Bài thu hoạch BDTX module GVMN 16</b>

Giáo dục thẩm mỹ là một q trình tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà giáo dục đến trẻ,
nhằm giúp trẻ biết nhận ra cái đẹp, có hứng thú, yêu thích cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp
trong sinh hoạt và hoạt động cá nhân.

Giáo dục thẩm mỹ mà trung tâm là giáo dục cái đẹp và đưa cái đẹp vào trong đời sống một cách
sáng tạo, là một nhiệm vụ rất quan trọng của giáo dục nhân cách phát triển tồn diện.

Tuổi thơ ln nhìn thế giới bằng cặp mắt trong sáng, tất cả đối với trẻ dường như rực rỡ hơn, mặt
trời chói lọi hơn, chị “Hằng Nga” huyền bí hơn, bơng hoa rực rỡ, dịng sơng tung sóng, cơn
giơng ập đến v.v… chúng bộc lộ xúc cảm thẩm mỹ thật hồn nhiên và trong trẻo. Lứa tuổi này tiếp
nhận và hình thành năng lực sáng tạo thẩm mỹ ban đầu rất cần thiết cho việc hình thành tài năng
sáng tạo về sau.

Để xây dựng cơ sở ban đầu cho giáo dục nhân cách con người phát triển toàn diện, giáo dục
mầm non cần phải được tiến hành một cách tổng hợp và đồng bộ các mặt sau đây:

 Giáo dục thể chất

 Giáo dục trí tuệ

 Giáo dục đạo đức

 Giáo dục thẩm mĩ

 Giáo dục lao động.

</div>
<span class=’text_page_counter’>(2)</span><div class=’page_container’ data-page=2>

(2)

<b>1. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non</b>

<b>1.1. Khái niệm và ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non</b>

<b>1.1.1. Khái niệm giáo dục thẩm mĩ</b>

Giáo dục thẩm mĩ, về bản chất là bồi dưỡng lòng khao khát đưa cái đẹp vào cuộc sống, tạo nên
sự hài hoà giữa xã hội – con người – tự nhiên, nâng cao năng lực cảm thụ và sáng tạo cái đẹp ở
con người, làm cho con người được phát triển một cách hài hoà trong mọi hoạt động lao động
cũng như nghỉ ngơi, trong quan hệ gia đình cũng như xã hội.

Cũng như mọi hoạt động giáo dục khác, giáo dục thẩm mĩ là một quá trình lâu dài, diễn ra một
cách có hệ thống: từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi
mầm non là sự khởi đầu cho tồn bộ q trình giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường.

Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mầm non là một quá trình sư phạm, nhằm hình thành và
phát triển ở trẻ em năng lực ban đầu về cảm thụ và nhận thức đúng đắn cái đẹp trong đời sống
sinh hoạt, xã hội, trong tự nhiên và trong nghệ thuật, giáo dục trẻ lòng yêu cái đẹp, sống theo cái
đẹp và biết tạo ra cái đẹp trong cuộc sống.

Giáo dục thẩm mĩ là một khái niệm rộng, bao gồm việc giáo dục cho trẻ thái độ thẩm mĩ đối với
thiên nhiên, lao động, đời sống xã hội và đối với nghệ thuật. Từ việc cho trẻ có được sự hiểu biết
đúng đắn thế nào là đẹp, xấu đến sự hình thành thái độ tích cực ủng hộ cái đẹp, loại trừ cái xấu,
đồng thời có hành vi thích hợp với bản thân để tạo ra cái đẹp cho bản thân và cái đẹp trong cuộc
sống xung quanh là một quá trình tác động sư phạm lâu dài của người lớn (cô giáo, cha mẹ, ông
bà…).

<b>1.1.2. Ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non</b>

Giáo dục thẩm mĩ là một trong những mặt quan trọng trong giáo dục để con người phát triển toàn
diện, do vậy, trong công tác giáo dục mầm non không thể thiếu giáo dục thẩm mĩ.

</div>
<span class=’text_page_counter’>(3)</span><div class=’page_container’ data-page=3>

(3)

Đặc tính của cái đẹp và đặc tính của tuổi thơ rất gần nhau, nên trẻ nhỏ đến cái đẹp như đến với

những gì thân thiết, q mến. Trẻ tích cực, vui sướng khi được sống trong thế giới của cái đẹp:
đồ dùng, đồ chơi đẹp, ngộ nghĩnh, màu sắc, âm thanh của cảnh vật xung quanh hấp dẫn… Vì
vậy, nếu khơng giáo dục cái đẹp cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ là bỏ lỡ một cơ hội trong giáo dục
con người. Có thể coi đó là một sự lãng phí đáng kể trong việc bồi bổ những năng khiếu, những
phẩm chất tất đẹp cho tâm hồn trẻ thơ.

những gì thân thiết, q mến. Trẻ tích cực, vui sướng khi được sống trong thế giới của cái đẹp:đồ dùng, đồ chơi đẹp, ngộ nghĩnh, màu sắc, âm thanh của cảnh vật xung quanh hấp dẫn… Vìvậy, nếu khơng giáo dục cái đẹp cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ là bỏ lỡ một cơ hội trong giáo dụccon người. Có thể coi đó là một sự lãng phí đáng kể trong việc bồi bổ những năng khiếu, nhữngphẩm chất tất đẹp cho tâm hồn trẻ thơ.

Mặt khác, tình yêu cái đẹp khơng phải là cái bẩm sinh mà nó được nảy sinh và phát triển trong
quá trình giáo dục. Một em bé sẽ khơng thể có được tình u cái đẹp nếu chúng ta không tạo
điều kiện để em bé đó tiếp xúc với nhiều cái đẹp xung quanh, khơng làm cho những thuộc tính
sinh động và phong phú của cái đẹp tràn vào các giác quan của trẻ để ghi lại trong tâm trí nó
những ấn tượng tươi mát, dễ chịu; nếu chúng ta không biết khêu gợi ở trẻ những xúc cảm tốt
lành về con người và làm thức dậy trong trẻ những gì thân thiết, gần gũi khi tiếp xúc với cái đẹp.

Đừng nên nghĩ rằng, trẻ cịn nhỏ khơng biết thế nào là đẹp, là xấu mà chỉ cần cho ăn no, mặc ấm
là được. Tất nhiên ăn no, mặc ấm là nhu cầu không thể thiếu, cần được thoả mãn để bảo đảm cho
trẻ sống. Nhưng để lớn lên thành người, trẻ cần được thoả mãn nhiều nhu cầu tinh thần, trong đó
có nhu cầu về cái đẹp và chính những nhu cầu ấy mới là động lực phát triển tâm lí, phát triển đời
sống tinh thần của trẻ.

Lời ru ngọt ngào, giọng nói âu yếm, âm điệu du dương của một bản nhạc; bông hoa tươi sắc, đồ
chơi nhiều dáng vẻ, màu sắc hài hoà… tất cả đều cần được đưa đến cho trẻ. Thiếu những cái
tưởng như bình thường ấy sẽ là nỗi bất hạnh cho trẻ thơ. Sớm tiếp xúc với cái vẻ đẹp đó sẽ giúp
cho việc hình thành ở trẻ những ấn tượng tươi mát, làm nảy sinh nhu cầu về cái đẹp, làm cho
trạng thái tinh thần của trẻ được thoải mái, dễ chịu, trẻ sẽ luôn cười vui với mọi người. Nhưng
ngược lại, những tác động xấu từ bên ngồi như: những lời nói tục tĩu, những nét mặt cau có,
những hành vi thơ lỗ, nơi ăn chốn ở nhếch nhác, bẩn thỉu sẽ làm cho tính tình của trẻ trở nên cáu
kỉnh, khó chịu hoặc nguy hại hơn là trẻ dễ thích nghi với cái xấu ngay từ tấm bé.

</div>
<span class=’text_page_counter’>(4)</span><div class=’page_container’ data-page=4>

(4)

(hát múa, thơ truyện, tạo hình…) khơng những ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành nhận
thức thẩm mĩ mà cịn tác động đến việc hình thành tình cảm đạo đức cho trẻ. Những xúc cảm

thẩm mĩ có ảnh hưởng lớn đến bộ mặt đạo đức của con người. Nhờ xúc cảm này mà tính cách
của trẻ trở nên cao thượng, đời sống của trẻ thêm phong phú, trẻ thêm lạc quan hơn trong cuộc
sống… Tất cả những điều đó tác động mạnh mẽ đến việc hình thành mối quan hệ tốt đẹp của trẻ
với cuộc sống và con người. Thông qua việc tiếp nhận những tác phẩm nghệ thuật trẻ sẽ nhận
thức đúng đắn về cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài trong cuộc sống… điều đó ảnh hưởng lớn đến
việc giáo dục các phẩm chất đạo đức cho trẻ (như lòng nhân ái, tính cộng đồng, hành vi đẹp
trong cuộc sống xã hội…).

thẩm mĩ có ảnh hưởng lớn đến bộ mặt đạo đức của con người. Nhờ xúc cảm này mà tính cáchcủa trẻ trở nên cao thượng, đời sống của trẻ thêm phong phú, trẻ thêm lạc quan hơn trong cuộcsống… Tất cả những điều đó tác động mạnh mẽ đến việc hình thành mối quan hệ tốt đẹp của trẻvới cuộc sống và con người. Thông qua việc tiếp nhận những tác phẩm nghệ thuật trẻ sẽ nhậnthức đúng đắn về cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài trong cuộc sống… điều đó ảnh hưởng lớn đếnviệc giáo dục các phẩm chất đạo đức cho trẻ (như lòng nhân ái, tính cộng đồng, hành vi đẹptrong cuộc sống xã hội…).

Qua giáo dục thẩm mĩ mà trẻ có được cảm thụ thẩm mĩ và nhận thức sâu sắc hơn những hiện
tượng của cuộc sống, nhờ đó mở rộng tầm nhìn của trẻ, làm cho các biểu tượng về thế giới xung
quanh càng thêm sâu sắc hơn, đồng thời khơi dậy ở trẻ lòng ham hiểu biết. Chẳng hạn, những đồ
dùng, đồ chơi đẹp, màu sắc hài hoà… sẽ giúp trẻ tri giác sự vật nhanh hơn, dễ dàng hơn, do vậy
mà dễ hình thành được biểu tượng về đồ vật đó trong đầu. Mặt khác, trên cơ sở những biểu
tượng phong phú về thế giới xung quanh được hình thành sẽ giúp cho trẻ cảm thụ cái đẹp sâu sắc
hơn, xúc cảm thẩm mĩ của trẻ trở nên mạnh mẽ hơn. Thật vậy, xúc cảm thẩm mĩ không chỉ được
xây dựng trên cơ sở cảm thụ cái đẹp, mà còn được dựa trên cơ sở hiểu biết sâu sắc hơn nội dung
cái đẹp.

Có thể nói, cái đẹp là dịng suối ni dưỡng lịng tốt và trí thơng minh. Chính vì thế mà các nhà
giáo dục học đã coi giáo dục thẩm mĩ là một mặt rất quan trọng trong việc hình thành và phát
triển nhân cách ở trẻ mầm non. Thiếu cái đẹp, đứa trẻ sẽ buồn rầu, già trước tuổi, thế giới tinh
thần sẽ nghèo nàn, làm thui chột năng khiếu và những phẩm chất tốt đẹp của trẻ.

Cuộc sống tinh thần trong thế giới cái đẹp khơi dậy ở trẻ nhu cầu muốn làm cho mình trở nên
đẹp hơn, nhu cầu khám phá cái đẹp ở xung quanh. Đứa trẻ càng sớm thấy được vẻ đẹp đó bao
nhiêu thì sự phát triển đời sống tinh thần và thể chất của nó càng thuận lợi bấy nhiêu.

</div>
<span class=’text_page_counter’>(5)</span><div class=’page_container’ data-page=5>

(5)

1.2. Nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ

1.2.1. Nhiệm vụ

Cũng như các mặt giáo dục khác, giáo dục thẩm mĩ cho trẻ là một quá trình lâu dài và mang tính
hệ thống. Mỗi lứa tuổi có những nhiệm vụ giáo dục cụ thể phù hợp với đặc điểm phát triển của
lứa tuổi đó ở lứa tuổi nhà trẻ, giáo dục thẩm mĩ bao gồm ba nhiệm vụ cơ bản sau:

a) Cung cấp và làm giàu ấn tượng xung quanh cho trẻ, trên cơ sở đó phát triển tri giác thẩm mĩ
cho chúng

Quá trình phát triển thẩm mĩ của con người diễn ra ngay từ khi còn nhỏ. Khi mà thị giác và thính
giác là phương tiện cơ bản giúp trẻ liên hệ với thế giời bên ngoài. Nhờ cặp mắt và đơi tai đứa trẻ
tích luỹ được những ấn tượng về thế giới.

Trẻ nhỏ thường hứng thú và có ấn tượng với những đồ vật, đồ chơi có màu sắc tươi sáng, sống
động, phát ra âm thanh, những hiện tượng thiên nhiên “bí ẩn”, hấp dẫn (mặt trời mọc, giọt sương
long lanh, tiếng chim hót líu lo, những bơng hoa đua sắc…), những hành vi, việc làm của mọi
người gây cho trẻ tị mị, thích thú… Người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thế giới
xung quanh để giúp trẻ có những ấn tượng phong phú, tốt đẹp về thế giới xung quanh. Bởi vì thế
giới màu sắc âm thanh, hình dáng, động tác càng phong phú, đẹp đẽ bao nhiêu thì việc giáo dục
thẩm mĩ càng có cơ sở tốt bấy nhiêu.

Trong q trình cho trẻ tiếp xúc với thế giới xung quanh, người lớn cần dạy trẻ biết nhìn và phát
hiện ra vẻ đẹp của thế giới xung quanh: (của đồ chơi, đồ dùng, của thiên nhiên và cuộc sống con
người). Đối với trẻ em lứa tuổi nhà trẻ, đây là một việc làm khó khăn, vì trẻ chưa ý thức được cái
đẹp trong cuộc sống xung quanh, chưa có tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp… mà chỉ là sự nhận biết
cảm tính vẻ bề ngoài của sự vật, hiện tượng.

b) Bước đầu phát triển ở trẻ năng lực cảm xúc thẩm mĩ và hứng thú với nghệ thuật

</div>
<span class=’text_page_counter’>(6)</span><div class=’page_container’ data-page=6>

(6)

mĩ được hình thành sẽ thúc đẩy con người hoạt động tích cực hơn, lạc quan hơn trong cuộc sống.
Vì vậy, hình thành và phát triển cảm xúc thẩm mĩ cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng trong giáo

dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ.

dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ.

Ở lứa tuổi nhà trẻ, trẻ em thường biểu hiện cảm xúc của mình một cách trực tiếp: qua nụ cười,
qua những phản ứng, qua những câu nói biểu lộ sự thích thú hay khơng thích. Do vậy, người lớn
có thể suy đốn được xúc cảm, tình cảm của trẻ, qua đó mà khơi sâu và làm phong phú những
cảm xúc dương tính và uốn nắn những cảm xúc âm tính cho trẻ, giúp cho sự phát triển cảm xúc
của trẻ phù hợp với nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ.

Theo N. Kiiasenco: “Chất dinh dưỡng tạo ra khả năng nghệ thuật là cái đẹp trong nghệ thuật…
Nhờ nghệ thuật mà con người hiểu được vẻ đẹp của cuộc sống, do đó mở rộng được lĩnh vực cái
đẹp. Vì nghệ thuật chân chính khơng bao giờ thốt li cuộc sống, mà trái lại, nó khao khát tìm
hiểu ý nghĩa nghệ thuật cuộc sống, nên trong nghệ thuật tập trung toàn bộ kinh nghiệm thẩm mĩ
của nhân dân”.

Như vậy, nghệ thuật là một phương tiện, con đường giáo dục và phát triển cảm xúc thẩm mĩ có
hiệu quả cho trẻ em. Bằng những giai điệu ngọt ngào của những bài hát, những câu thơ, những
câu ca dao giàu nhạc tính, những tác phẩm hội hoạ đặc sắc… người lớn đã đưa trẻ vào những giá
trị văn hoá nhân loại, dân tộc, tạo cho trẻ những cảm xúc mang tính thẩm mĩ, làm nảy sinh nhu
cầu về cái đẹp trong cuộc sống xung quanh.

c) Bước đầu giáo dục thị hiếu thẩm mĩ và phát triển năng lực sáng tạo nghệ thuật cho trẻ

</div>
<span class=’text_page_counter’>(7)</span><div class=’page_container’ data-page=7>

(7)

Thị hiếu thẩm mĩ của trẻ nhỏ thường thể hiện ở việc đánh giá cái đẹp phân biệt cái xấu, cái đẹp.
Trường mầm non cần dạy trẻ biết phân biệt cái đẹp với cái khơng đẹp, cái thơ kệch và xấu xí.
Cần giúp trẻ biết trình bày rõ tại sao thích bài hát, bức tranh, truyện cổ tích hay một nhân vật nào
đó trong tác phẩm. Phải giúp trẻ biết cảm thụ cái đẹp ở xung quanh và biết tạo tạo ra cái đẹp
trong cuộc sống hằng ngày. Một bơng hoa đẹp trong khóm hoa, một lớp học sạch sẽ, ấm cúng
trang trí trong nhà phải được trẻ yêu quý. Trẻ không vứt rác bừa bãi, biết xếp gọn đồ chơi, đồ
dùng để luôn giữ được vẻ đẹp của trường lớp, đem lại nguồn vui cho mọi người.

Thị hiếu thẩm mĩ của mỗi trẻ có sự khác nhau. Vì vậy, trong việc giáo dục thị hiếu thẩm mĩ cho
trẻ, người lớn, cô giáo cần tơn trọng và phát huy ý thích thẩm mĩ lành mạnh của trẻ, tránh gị bó,
áp đặt làm thui chột óc thẩm mĩ và thị hiếu thẩm mĩ của trẻ.

Hoạt động tạo hình rất hấp dẫn với trẻ, vì sản phẩm tạo thành với màu sắc, đường nét, hình khối,
dáng vẻ đã tác động trực tiếp đến thị giác và xúc giác của trẻ. Ngay từ những năm tháng đầu tiên
của đời người, đôi mắt trẻ thơ đã hoạt động để tiếp nhận ánh sáng, màu sắc. Đứa trẻ 3 – 4 tháng
tuổi đã cảm thấy thoả mãn khi nhìn thấy màu sắc rực rỡ từ những giải lụa hay chùm bóng treo
trên nơi, 5 – 6 tháng tuổi đã biết vờn theo đồ vật, đồ chơi có màu sắc và có hình thù hấp dẫn. Trẻ
3 tuổi đã có thể nhận ra con gà, con vịt, hay những người trong tranh… và bằng cách đó mà trẻ
đi vào thế giới tạo hình một cách tự nhiên. Do vậy, người lớn cần chú ý giáo dục và hình thành
năng lực tạo hình cho trẻ, trước hết là hướng dẫn trẻ cảm thụ được vẻ đẹp của những sản phẩm
tạo hình, sau đó tập cho trẻ một kĩ năng nặn, vẽ… những thứ mà trẻ yêu thích.

<b>1.2.2. Nội dung và phương pháp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi nhà trẻ</b>

<b>a) Dạy trẻ quan sát, cảm thụ vẻ đẹp của thiên nhiên</b>

</div>
<span class=’text_page_counter’>(8)</span><div class=’page_container’ data-page=8>

(8)

Khi còn nhỏ, trẻ được người lớn bế ra ngoài trời ngắm những màu sắc của hoa lá trong vườn,
lắng nghe tiếng chim hót, tiếng con mèo kêu, chó sủa…; lớn hơn một chút, trẻ được người lớn
chỉ cho xem ông trăng sáng tỏ trên trời, bầu trời sao lấp lánh vào buổi tối, ánh bình minh khi mặt
trời mọc, con vịt bơi trên hồ nước, con cá vàng phất phơ cái đuôi như lá cờ, con cua bị ngang,
con tơm đi giật lùi… trẻ vừa thích thú vừa cảm nhận được vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên.

Thiên nhiên mãi mãi vẫn dành cho trẻ em những niềm vui bất ngờ và nếu được rèn luyện óc
quan sát từ thuở ấu thơ thì trẻ có khả năng phát hiện ra bao nhiêu điều thú vị, cả trong những sự
vật tưởng như là bình thường và tẻ nhạt đối với người lớn. Thiên nhiên đẹp, tự nó đã là những
chất dinh dưỡng cho tâm hồn trẻ thơ, nếu được người lớn hướng dẫn trẻ nhìn, nghe, màu sắc, âm
thanh tuyệt diệu của nó thì cảm giác, tri giác của trẻ trở nên nhạy bén, tinh tế hơn. Do vậy, người
lớn, cô giáo mầm non cần quan tâm giáo dục, dẫn dắt trẻ đến với thiên nhiên.

Tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thiên nhiên, hướng dẫn trẻ quan sát thiên nhiên là vấn đề mang
tính giáo dục lớn lao và là một trong những nội dung giáo dục thẩm mĩ quan trọng cho trẻ.
Trường mầm non cần có góc thiên nhiên, trồng nhiều cây cảnh, hoa lá để trẻ quan sát cần có bể
cá cảnh, chuồng gà, chuồng chim, chuồng thỏ… để trẻ chiêm ngưỡng, qua đó giáo dục thẩm mĩ
cho trẻ.

Thực tế ở nhiều địa phương, nhất là ở thành phố, nhiều trường mầm non khơng có góc thiên
nhiên, trẻ ít được tiếp xúc với thiên nhiên đa dạng – một thiệt thòi lớn của tuổi thơ. Nhìn lũ trẻ
chơi trên bãi cát, nó đào xới, hí hốy xúc cát ở chỗ này đổ sang chỗ khác một cách lí thú; ngỡ
ngàng, sung sướng khi phát hiện con tôm đi giật lùi, con cua thì lại bị ngang, con cá vàng phất
phơ cái đuôi như lá cờ…, ta càng nhận thấy sự thiệt thịi, bất hạnh của những đứa trẻ khơng có
điều kiện tiếp xúc với các hiện tượng thiên nhiên đa dạng.

Người lớn, cô giáo mầm non tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với các sự vật, hiện tượng đa dạng,
phong phú của thiên nhiên và dạy trẻ biết quan sát, cảm thụ được vẻ đẹp muôn màu của thiên
nhiên, là đem lại hạnh phúc cho tuổi thơ.

b) Giáo dục vẻ đẹp trong đời sống sinh hoạt hằng ngày

</div>
<span class=’text_page_counter’>(9)</span><div class=’page_container’ data-page=9>

(9)

người lớn. Vì một óc thẩm mĩ tốt hay xấu, một thị hiếu lành mạnh hay thấp hèn, một cách cư xử
có văn hố hay thiếu văn hố… đều bắt nguồn từ đời sống của con người. Do vậy, giáo dục vẻ
đẹp trong đời sống sinh hoạt hằng ngày cho trẻ là một nội dung giáo dục thẩm mĩ cơ bản cho trẻ
em lứa tuổi nhà trẻ. Vẻ đẹp trong đời sống sinh hoạt của con người rất đa dạng, phong phú, được
thể hiện trước hết ở mối quan hệ giữa con người với con người, trong những hành vi văn hoá –
vệ sinh… Dưới đây là một số nội dung giáo dục cơ bản:

– Giáo dục vẻ đẹp trong mối quan hệ với những người thân. Đó là giáo dục cho trẻ biết thương
yêu, gắn bó, chào hỏi lễ phép với ông bà, cha mẹ, cô giáo…, biết thân thiện với bạn bè và biết
cám ơn người khác mang lại niềm vui cho mình, biết xin lỗi khi gây phiền hà cho người khác.

– Giáo dục cho trẻ những hành vi văn hố – vệ sinh. Đó là việc giáo dục trẻ những hành vi, cử
chỉ, lời ăn tiếng nói đẹp đẽ thể hiện thái độ đúng đắn với mọi người (lễ phép với người lớn, thân
thiện với bạn bè…).

Giáo dục trẻ thói quen sạch sẽ, vệ sinh trong ăn uống (rửa tay trước khi ăn, ngồi ăn ngay ngắn,
khơng vừa nhai vừa nói chuyện, lau miệng, uống nước sau khi ăn…) thói quen sạch sẽ, vệ sinh
trong ăn mặc (khơng bơi bẩn ra quần áo, đầu tóc gọn gàng…); giáo dục và rèn luyện cho trẻ tác
phong sinh hoạt văn hoá, văn minh (đi đứng nhanh nhẹn, khoẻ khoắn, tự tin, ăn nói gãy gọn…).

Tất cả những hành vi này cần được giáo dục và rèn luyện ngay từ nhỏ. Nếu người lớn, cơ giáo
mầm non khơng có ý thức dạy dỗ, rèn luyện tỉ mỉ và chu đáo sẽ dễ hình thành những thói quen
hành vi khơng mong muốn (như nói tục, chửi bậy, nhếch nhác, bẩn thỉu trong ăn, mặc…). Việc
hình thành thói quen tốt là một việc làm địi hỏi tính kiên trì, và việc phá vỡ thói quen xấu cũng
cần địi hỏi sự kiên trì.

– Giáo dục cho trẻ vẻ đẹp trong mối quan hệ với thế giới đồ vật xung quanh

</div>
<span class=’text_page_counter’>(10)</span><div class=’page_container’ data-page=10>

(10)

trẻ biết cách sử dụng đồ vật theo đúng chức năng của nó, nắm được nguyên tắc sử dụng đồ vật và
cảm nhận được vẻ đẹp của nó.

Trong khi lĩnh hội được những hành động, thao tác sử dụng đồ vật, thì đồng thời trẻ cũng lĩnh
hội được quy tắc hành vi trong xã hội (chức năng xã hội của đồ vật, ngun tắc sử dụng nó…).
Đây chính là cơ hội để dạy trẻ cách cư xử đẹp, có văn hố đối với những đồ vật xung quanh.

Trong q trình hướng dẫn trẻ hoạt động với đồ vật, người lớn cần tỏ thái độ hài lịng hay khơng
hài lịng với những hành vi, việc làm của trẻ khi sử dụng đồ vật là rất cần thiết. Nhờ thái độ đó
của người lớn, đứa trẻ có thể điều chỉnh hành vi của mình để có được cách ứng xử tốt nhất đối
với thế giới đồ vật. Ví dụ: Người lớn có thể chấp nhận để trẻ tháo một vài bộ phận của chiếc ơ tơ
đồ chơi để xem xét nó, nhưng khơng thể bằng lịng khi nhìn thấy đứa trẻ vặt chân, tay, đầu búp

bê.

bê.

Khi dạy trẻ vẻ đẹp trong mối quan hệ với thế giới đồ vật cũng cần tập cho trẻ thói quen ngăn nắp,
gọn gàng, sạch sẽ trong việc sắp xếp, trang trí phịng chơi – tập, phịng ăn, phịng ngủ của chúng.
Việc làm này chính là một nội dung cơ bản của việc giáo dục và rèn luyện hành vi văn hoá – vệ
sinh thẩm mĩ cho trẻ trong đời sống sinh hoạt hằng ngày.

c) Bước đầu cho trẻ làm quen với nghệ thuật

– Bước đầu cho trẻ làm quen với âm nhạc

</div>
<span class=’text_page_counter’>(11)</span><div class=’page_container’ data-page=11>

(11)

vời ấy. Các bà mẹ, cô giáo mầm non khi hát ru cho trẻ nghe phải hát với cả tấm lịng mình: vừa
hát vừa nhìn vào trẻ, bế trẻ vào lịng để ôm ấp, vỗ về cầm tay trẻ để cử động theo giai điệu, phù
hợp với tình cảm của bài hát để tạo ra một cảm giác an toàn cho trẻ đi vào giấc ngủ, thơi khóc
hay chịu chơi. Người mẹ, cô giáo mầm non không biết hát ru, hoặc hát một cách vơ cảm sẽ gặp
khó khăn trong giáo dục trẻ thơ.

Khi trẻ biết nói, cần khuyến khích trẻ hát và vận động theo nhạc. Để giúp trẻ làm quen với tiết
tấu, người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ vỗ tay, gõ mõ, đánh trống… khi hát.

Người lớn, cô giáo mầm non cần tuyển chọn những bài hát ngắn, vừa có giai điệu đẹp, vừa có
tiết tấu vui thì trẻ nhỏ nối tiếp nhận được. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng cho trẻ tiếp xúc
với những bài hát có tiết tấu rộn ràng, lại càng nên tránh những bài hát có tiết tấu q sơi động
đến nhức tai, nhức óc gây kích động có hại cho thần kinh của trẻ.

<b>Giáo dục vẻ đẹp trong thơ ca cho trẻ</b>

Thơ ca là tinh hoa của ngôn ngữ, là kết tinh vẻ đẹp của tiếng mẹ đẻ sản phẩm trí tuệ và tình cảm
của biết bao thế hệ nối tiếp nhau. Thơ ca khơng chỉ gieo vào lịng chúng ta vẻ đẹp của tiếng nói
dân tộc mà cịn ánh lên vẻ đẹp của tâm hồn Việt Nam, thiên nhiên Việt Nam.

Sớm cho trẻ tiếp xúc với thơ ca là điều rất cần thiết, vì thơ ca là nguồn dinh dưỡng cho tâm hồn
trẻ thơ về nhiều mặt: giáo dục cho trẻ cái hay, cái đẹp của tiếng nói dân tộc; làm giàu thế giới
xúc cảm của trẻ thơ và nuôi dưỡng trí tưởng tượng của trẻ.

Tính nhạc điệu của thơ ca giúp trẻ tiếp nhận nó một cách dễ dàng và thích thú. Thật tuyệt vời khi
bắt đầu học nói, trẻ được tiếp xúc với thơ ca, một thứ ngôn ngữ giàu nhạc điệu, vần điệu và giàu
hình tượng. Tất cả những yếu tố đó thúc đẩy ý thức ngơn ngữ của trẻ được nảy sinh, giúp cho lời
nói của trẻ được hay hơn, đẹp hơn, thế giới xúc cảm của trẻ phong phú hơn, lành mạnh hơn, cân
bằng hơn, trí tưởng tượng của trẻ phong phú, bay bổng, đầy ước mơ.

</div>
<span class=’text_page_counter’>(12)</span><div class=’page_container’ data-page=12>

(12)

được nảy nở khi giao tiếp với mọi người, khi tiếp xúc với vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng như trong
cuộc sống sinh hoạt hằng ngày.

<b>Giáo dục vẻ đẹp trong khúc hát đồng dao cho trẻ</b>

Đồng dao là những câu vè ngắn gọn có vần điệu, nhịp điệu được trẻ thơ thích hát trong khi chơi,
trong sinh hoạt cộng đồng – Đồng dao có tác dụng giáo dục mạnh mẽ đối với trẻ em, trước hết là
giáo dục thái độ văn hoá đối với hai mối quan hệ chủ yếu của con người: con người – thiên
nhiên; con người – xã hội.

Đối với thiên nhiên, đồng dao gợi lên ở trẻ tình yêu hồn nhiên đối với con ong, con kiến, con cò,
con vạc, cỏ cây hoa lá…

Đối với con người, đồng dao gợi lên ở trẻ tình u đối với ơng bà, cha mẹ, bà con xóm làng;
đồng cảm với những người có cảnh ngộ éo le, sẵn lòng giúp đỡ người nghèo khổ; tàn tật. Có thể
nói, đồng dao là những bài học đạo đức rất nhẹ nhàng và hấp dẫn đối với trẻ thơ.

Mặt khác, đồng dao với tính hài hước của nó đã mang lại cho trẻ những niềm vui sướng vô tư, nụ
cười sảng khối. Hơn nữa, chính sự hài hồ, hóm hỉnh của đồng dao đã bồi dưỡng trí tuệ của trẻ

thêm thông minh, sắc sảo.

thêm thông minh, sắc sảo.

– Giáo dục cái đẹp trong hoạt động tạo hình

Như đã trình bày trong nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ, tạo hình rất hấp dẫn
trẻ thơ. Ngay từ nhỏ, trẻ đã thích nhìn ngắm những bức tranh màu sắc sặc sỡ, những hình khối đa
dạng, nhưng chúng chưa tự nhận biết, chưa tự phát hiện ra cái đẹp của những tác phẩm ấy. Bởi
vậy, người lớn cần phải hướng dẫn trẻ, tổ chức cho trẻ được tiếp xúc với nhiều tác phẩm tạo hình
có giá trị như tranh, tượng… và hướng dẫn trẻ cảm thụ được vẻ đẹp của mỗi tác phẩm.

</div>
<span class=’text_page_counter’>(13)</span><div class=’page_container’ data-page=13>

(13)

thích ngắm nhìn những tác phẩm nghệ thuật này, và cũng thích thú hơn khi người lớn hướng dẫn
trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của mỗi tác phẩm.

Cùng với việc hướng dẫn trẻ cảm thụ vẻ đẹp của tác phẩm tạo hình khi được xem, sờ mó nó,
người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ tập cầm bút, vẽ những đường cơ bản, cho trẻ chơi với đất
nặn, tập nặn. Mặc dù trẻ vẽ nguệch ngoạc, nặn cịn thơ kệch chưa có hình thù rõ rệt, nhưng dần
dần trẻ sẽ có kĩ năng vẽ những tranh đơn giản (vẽ quả cam, quả thị, quả táo, cái lá…), nặn theo ý
định – một số cái đơn giản (đơi đũa, cái thìa, quả cam, quả thị…).

Các hoạt động tạo hình khác như xếp hình, xé dán… cũng là những hoạt động được trẻ ưa thích
và người lớn có thể giáo dục thẩm mĩ cho trẻ qua việc tổ chức cho trẻ tham gia những hoạt động
này.

Tóm lại, tuổi thơ là giai đoạn đầu tiên của cuộc đời, là thời kì con người tiếp nhận cái đẹp một
cách dễ dàng, bởi vì trẻ nhỏ đến với cái đẹp một cách tự nhiên như đến với những gì thân thiết,
yêu quý. Vì vậy nếu bỏ qua tuổi thơ trong việc giáo dục cái đẹp là bỏ lỡ một cơ hội thuận lợi
trong giáo dục con người. Nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ phải phong phú, bao gồm nhiều thể
loại, đặc biệt là giáo dục cho trẻ cái đẹp gần gũi trong cuộc sống hằng ngày, để hình thành năng
lực thẩm mĩ cho trẻ. Giáo dục thẩm mĩ không thể áp đặt, gị bó, mà phải để trẻ tự nhiên, thoải
mái, giữ được tính hồn nhiên của trẻ thơ.

1.3. Nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo

1.3.1. Nhiệm vụ và nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo

– Phát triển tri giác, tình cảm và hình thành biểu tượng về cái đẹp cho trẻ mẫu giáo.

Giáo dục thẩm mĩ bắt đầu từ sự phát triển năng lực tri giác cái đẹp, cảm thụ cái đẹp, hiểu cái đẹp
theo cách người ta thường nói về nghệ thuật.

</div>
<span class=’text_page_counter’>(14)</span><div class=’page_container’ data-page=14>

(14)

Cơ sở của sự tri giác cái đẹp là sự nhận thức cảm tính, cụ thể về mặt thẩm mĩ. Ngay từ những
năm đầu tiên của cuộc sống, trẻ đã bị lôi cuốn một cách vô ý thức vào tất cả những gì mới lạ, hấp
dẫn như đồ vật có màu sắc sặc sỡ, những âm thanh và nhịp điệu rộn rã, tươi vui của thế giới xung
quanh. Từ “đẹp” sớm đi vào cuộc sống của trẻ. Trẻ say sưa lắng nghe bài hát, nghe truyện cổ
tích, xem tranh ảnh. Song đó chưa phải là tình cảm thẩm mĩ mà chỉ là sự biểu hiện của hứng thú
nhận thức. Nhiệm vụ của giáo dục thẩm mĩ là giúp trẻ chuyển từ tri giác tự phát sang sự tri giác
có ý thức về cái đẹp. Cơ giáo cần làm cho trẻ chú ý đến những sự vật và hiện tượng của tự nhiên,
đến những hành vi của con người, dạy cho các em biết nhìn ra và phát triển được cái đẹp trong
đời sống, trong thiên nhiên, trong lao động, trong hành vi và hành động của con người, dạy cho
các em biết nhìn nhận về phương diện thẩm mĩ đối với thế giới xung quanh.

Sự tri giác thẩm mĩ bao giờ cũng liên quan chặt chẽ với cảm xúc và tình cảm thẩm mĩ. Với trẻ
em, đặc điểm của tình cảm thẩm mĩ là niềm vui vô tư, là cảm xúc trong sáng xuất hiện khi thấy
cái đẹp. Tình cảm thẩm mĩ giữ vai trị rất to lớn trong việc đánh giá các sự vật và hiện tượng
khác nhau, trong việc rèn luyện thị hiếu thẩm mĩ sau này cho trẻ.

Giáo viên cịn có nhiệm vụ dẫn dắt trẻ đi từ sự tri giác cái đẹp, cảm xúc đối với nó, đến chỗ hiểu
và hình thành biểu tượng về cái đẹp, biết nhận xét và đánh giá thế nào là đẹp, thế nào là xấu.

– Phát triển hứng thú và năng lực sáng tạo nghệ thuật cho trẻ

Năng lực sáng tạo nghệ thuật không phải là cái bẩm sinh, nó được hình thành trong q trình
giáo dục của người lớn. Mọi trẻ em bình thường đều có khả năng sáng tạo nghệ thuật nếu được
hướng dẫn đúng đắn về mặt sư phạm. Do vậy, việc phát triển hứng thú và năng lực sáng tạo nghệ
thuật cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng. Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp.
Bởi lẽ, nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng những hình tượng sinh động, cụ
thể, gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Song ở lứa tuổi mẫu giáo,
hầu hết trẻ em đều u thích các loại hình nghệ thuật và có khả năng tiếp thu các loại hình nghệ
thuật như, múa hát, kể chuyện, đọc thơ, vẽ, nặn, xé dán,… Vì vậy, nhiệm vụ của cơ giáo mầm
non là phải khêu gợi hứng thú và tạo điều kiện cho trẻ tham gia tích cực, tự giác vào các loại
hình nghệ thuật đó để phát triển năng lực sáng tạo nghệ thuật cho trẻ.

</div>
<span class=’text_page_counter’>(15)</span><div class=’page_container’ data-page=15>

(15)

Sự thụ cảm cái đẹp có liên hệ mật thiết đến năng lực đánh giá cái đẹp một cách đúng đắn. Thị
hiếu thẩm mĩ của con người biểu hiện ở khả năng phán đoán, đánh giá về cái đẹp, cái xấu trong
hiện thực xung quanh. Trường mẫu giáo có nhiệm vụ hình thành cho trẻ những cơ sở của thị hiếu
thẩm mĩ, thị hiếu nghệ thuật. Cần dạy cho các em phân biệt cái đẹp với cái khơng đẹp, cái thơ
kệch và xấu xí. Cần giáo dục cho các em năng lực trình bày rõ lí do tại sao mình thích bài hát,
truyện cổ tích hay bức tranh này. Dĩ nhiên, trường mẫu giáo hình thành cho trẻ cơ sở ban đầu về
đánh giá, nhưng chính điều này có ý nghĩa to lớn, vì nó giáo dục trẻ một thái độ tự giác hơn với
đối tượng thẩm mĩ.

Cần dạy trẻ biết nhận ra và cảm thụ cái đẹp ở cuộc sống xung quanh và biết bảo vệ nó. Một bơng
hoa đẹp trong khóm hoa, một lớp học trang hoàng, đẹp đẽ, ấm cúng và sạch sẽ, các đồ dùng được
xếp, đặt gọn gàng, ngăn nắp v.v… đều là những cái đẹp trong cuộc sống, phải biết bảo vệ, chăm
sóc và giữ gìn. Đồng thời, cũng cần giúp trẻ hiểu được thế nào là cái xấu xí, thơ kệch cần tránh
trong cuộc sống hằng ngày, như quần áo lơi thơi, bẩn thỉu; đầu tóc rối bù; đồ dùng, đồ chơi vứt
ngổn ngang bừa bãi…

Nghiên cứu các nhiệm vụ cơ bản của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo cho thấy, chúng có ý
nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách của trẻ, đồng thời cũng thấy được quá trình giáo

dục thẩm mĩ rất phức tạp nhiều hình, nhiều vẻ và địi hỏi ở nhà giáo dục một vốn tri thức và kĩ
năng văn hoá thẩm mĩ nhất định.

dục thẩm mĩ rất phức tạp nhiều hình, nhiều vẻ và địi hỏi ở nhà giáo dục một vốn tri thức và kĩnăng văn hoá thẩm mĩ nhất định.

4.3.2. Phương pháp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo

Khái niệm và thuật ngữ “các phương pháp giáo dục thẩm mĩ” và “các phương pháp dạy nghệ
thuật” có những điểm giống nhau và khác nhau. Các phương pháp giáo dục thẩm mĩ khơng chỉ
nhằm hình thành thái độ thẩm mĩ đối với thế giới tự nhiên, xã hội, đối tượng thẩm mĩ mà cịn đối
với cả q trình dạy nghệ thuật. Khái niệm “các phương pháp giáo dục thẩm mĩ” rộng hơn và
bao hàm trong nó cả phương pháp dạy nghệ thuật.

</div>
<span class=’text_page_counter’>(16)</span><div class=’page_container’ data-page=16>

(16)

Các phương pháp giáo dục thẩm mĩ có mối liên hệ với các nhiệm vụ và bản chất của giáo dục
thẩm mĩ. Những phương pháp giáo dục thẩm mĩ nhằm kích thích trẻ tích cực suy nghĩ, cảm xúc,
tưởng tượng và hoạt động.

Hệ thống phương pháp phổ biến được phân loại trên cơ sở nguồn cung cấp tri thức, bao gồm:

– Nhóm các phương pháp dùng lời: giải thích, trị chuyện, chỉ dẫn, đọc kể…

– Nhóm các phương pháp trực quan: quan sát, sử dụng các đồ dùng trực quan.

– Nhóm các phương pháp thực hành (hay thực tiễn) luyện tập.

– Nhóm các phương pháp dùng trị chơi.

Các phương pháp này được sử dụng trong sự phối hợp thống nhất với nhau. Trước hết, cô cần tổ
chức cho trẻ quan sát vẻ đẹp của cuộc sống, của thiên nhiên, như quan sát một vườn hoa, cảnh
hồng hơn đầy màu sắc, khung cảnh một ngày lễ, hay những tác phẩm nghệ thuật (bức tranh vẽ,
bức tượng gỗ…) kết hợp với ngôn ngữ nghệ thuật trong kể chuyện, chỉ dẫn, giải thích… làm
tăng khả năng cảm thụ thẩm mĩ và làm cho trẻ nhận ra cái đẹp và yêu thích cái đẹp trong cuộc

sống, trong thiên nhiên và trong các tác phẩm nghệ thuật.

sống, trong thiên nhiên và trong các tác phẩm nghệ thuật.

Những cảm xúc thẩm mĩ trở nên sâu sắc và giữ được lâu hơn nếu như trẻ hiểu rõ nội dung đối
tượng (một bài hát, một câu chuyện cổ tích, một bức tranh, một bơng hoa đẹp, một áng mây trơi,
…). Do đó, cơ giáo cần giải thích nội dung tác phẩm đang được tiếp thu, làm chính xác các biểu
tượng của các em. Việc trình bày một cách nghệ thuật những tác phẩm âm nhạc, những ca khúc;
việc đọc các tác phẩm văn học nghệ thuật tác động trực tiếp đến trẻ, khêu gợi tình cảm và cảm
xúc thẩm mĩ, giúp các em hiểu sâu sắc hơn nội dung và hình thức tác phẩm.

</div>
<span class=’text_page_counter’>(17)</span><div class=’page_container’ data-page=17>

(17)

Khi trẻ dạy vẽ, nặn, hát, múa, cô không chỉ hướng dẫn trẻ cách làm mà cần tổ chức cho trẻ thực
hành nhằm hình thành những kỹ năng nhất định. Bởi vậy, giáo viên cần vận dụng phương pháp
luyện tập. Để trẻ hiểu biết các thao tác, cách biểu hiện, cách sử dụng các đồ dùng học tập (bút
chì, bút lông, màu vẽ v.v…) cô cần dùng các biện pháp chỉ dẫn, làm mẫu…

Trong giáo dục thẩm mĩ cũng cần dùng phương pháp tập luyện hành động có thể gọi đó là những
hành động thẩm mĩ. Ở trẻ có những hành động với ý thức muốn làm cho hoàn cảnh sống xung
quanh đẹp hơn, tức là trẻ muốn biến đổi nó theo sức mình và bằng cách đó làm cho bạn bè và
người lớn vui thích. Cần giúp trẻ tập luyện hành động thông qua các bài tập khác nhau. Tập
luyện địi hỏi phải có sự lặp đi lặp lại nhiều lần. Nhưng khác với việc tập luyện những thói quen
trong sinh hoạt, việc tập luyện những hành động thẩm mĩ khơng theo một trình tự chặt chẽ, ví
như, trẻ có thể dùng sỏi đá, những tấm bìa nhỏ, những mảnh nhựa màu để xếp thành một hình gì
đó (một con thuyền, một ngơi nhà chẳng hạn…). Vì vậy, rất cần giáo dục và phát triển năng lực
hành động trong những hồn cảnh có vấn đề, năng lực vận dụng những kĩ năng đã nắm được.

Trong giáo dục thẩm mĩ, hoạt động chủ yếu của trẻ là hoạt động nghệ thuật. Điều quan trọng là
cho trẻ tiếp xúc với những phương thức hoạt động nghệ thuật khái quát nhất, điển hình nhất, tức
là những phương thức cần thiết cho mọi biến thể của các loại hình nghệ thuật. Những phương
thức chung đó là: những phương thức định hướng về âm thanh, màu sắc, hình dạng, vận động,
những phương thức định hướng trong toàn bộ những phương tiện thể hiện của mỗi loại hình
nghệ thuật (cảm giác), các phương thức tiếp xúc với nội dung tư tưởng, tình cảm của các tác

phẩm và cùng xúc cảm với các nhân vật (hình tượng nghệ thuật), sự kết hợp những phương thức
tổng thể và phân tích.

</div>
<span class=’text_page_counter’>(18)</span><div class=’page_container’ data-page=18>

phẩm và cùng xúc cảm với các nhân vật (hình tượng nghệ thuật), sự kết hợp những phương thứctổng thể và phân tích.

(18)

Mặt khác, quan điểm tổng hợp đòi hỏi phải thiết lập mối quan hệ qua lại giữa các phương pháp
và biện pháp giáo dục thẩm mĩ, có tính đến những điều kiện sư phạm, các nhân tố của quá trình
sư phạm nhằm đem lại một kết quả tối ưu.

1.4. Phương tiện giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mầm non

Có nhiều phương tiện để giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non. Dưới đây là một số phương
tiện cơ bản:

1.4.1. Vẻ đẹp của môi trường xung quanh trẻ

Những đồ đạc, vật dụng trong gia đình như: nhà cửa, đồ dùng, đồ chơi… từ hình dáng, kích
thước, màu sắc… đến bài trí nó trong gia đình đảm bảo sự trang nhã, gọn gàng, sạch sẽ, trật tự…
trở thành đối tượng thẩm mĩ của trẻ. Bởi vì, chính những cái đó đã gây ấn tượng sâu sắc ở trẻ và
để lại trong trí nhớ và ý nghĩ của trẻ thơ.

Vẻ đẹp trong sinh hoạt của trường mầm non như các tiện nghi sinh hoạt, đồ chơi, cách sắp xếp,
bài trí, màu sắc của các vật dụng đảm bảo sự trang nhã, hài hoà đã tạo ra vẻ đẹp của môi trường
“học tập” cho trẻ. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến việc giáo dục thẩm mĩ cho trẻ. Người lớn,
cô giáo mầm non cần tạo điều kiện cho cuộc sống sinh hoạt xung quanh trẻ từ nhà ở đến trường,
lớp mầm non có vẻ đẹp trang nhã, tươi vui hợp lí, hấp dẫn và mang tính giáo dục thẩm mĩ cao.

<b>Tóm lại: Giáo dục thẩm mỹ trong những nội dung quan trọng của giáo dục toàn diện đối với thế</b>
hệ trẻ, và là việc cần phải tiến hành một cách nghiêm túc từ tuổi mẫu giáo. Có thể coi trẻ mẫu
giáo là thời kỳ “hoàng kim” của giáo dục thẩm mỹ. Ở lứa tuổi này, tâm hồn trẻ rất nhạy cảm dễ
xúc động đối với con người và cảnh vật xung quanh, trí tưởng tượng của trẻ bay bổng và phong
phú. Do vậy, năng khiếu nghệ thuật và cũng thường được nảy sinh từ lứa tuổi này.

</div>
<span class=’text_page_counter’>(19)</span><div class=’page_container’ data-page=19>

(19)

tiếp – ứng xử tốt đẹp trong gia đình, đây là điều kiện quan trọng nhất để giáo dục thẩm mỹ cho
trẻ.

</div>

<!–links–>