Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vai trò của thương mại (Phần 2)

Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vai trò của thương mại (Phần 2)

2. Giải pháp để xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, định hướng XHCN và giàu tính nhân văn ở nước ta

2.1. Bối cảnh và những vấn đề đặt ra

Thế giới đang trải qua những thay đổi to lớn. Ba xu hướng đang tác động lên nền kinh tế các nước: sự chững lại của quá trình toàn cầu hóa; bùng nổ các ứng dụng công nghệ và sự xuất hiện ngày càng nhiều các biến cố kiểu “thiên nga đen- black swan”, gây bất ngờ và xáo trộn mọi dự tính. Hệ thống hay trật tự kinh tế thế giới đang có nhiều thay đổi. Đại dịch Covid-19 và cuộc chiến Nga-Ukaina nổ ra được cho là đang tạo ra nhiều yếu tố mới có thể làm thay đổi trật tự này thêm nữa.

Đến nay, Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 15 FTA đã ký kết, có hiệu lực và 02 FTA đang đàm phán (Gồm các FTA:  Việt Nam – EFTA và Việt Nam – Israel). Các FTA đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn (200% GDP), tiếp cận và thiết lập quan hệ thương mại với gần 230 thị trường.

Với việc thực thi các FTA thế hệ mới, dự báo Việt Nam sẽ được hưởng lợi lớn từ làn sóng đầu tư mới, hình thành năng lực sản xuất mới, có điều kiện tăng tốc mở cửa với thế giới, tạo lập một nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó – cơ sở để xây dựng một nền kinh tế có sức cạnh tranh. Khung khổ pháp lý của các hiệp định sẽ là khuôn mẫu cho việc vận hành các nền kinh tế trong thế kỷ XXI với những quy phạm, quy định cao hơn, toàn diện hơn. Việt Nam sẽ được chơi trên một sân chơi đẳng cấp – sân chơi của các “đại gia”, có nhiều cơ hội để kết nối sâu hơn với kinh tế toàn cầu.

Sự gia tăng của các FTA thế hệ mới gắn liền với việc mở rộng chuỗi giá trị toàn cầu (Global Value Chain – GVC). Trong bối cảnh quá trình sản xuất ngày càng bị phân mảnh và các bước sản xuất được trải rộng trên các quốc gia khác nhau, phương thức thương mại truyền thống đặc trưng bởi trao đổi hàng hóa cuối cùng đang được thay thế bằng giao dịch các nhiệm vụ (trade in tasks). Điều này cho phép các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hóa bằng cách đảm nhận một số nhiệm vụ nhất định trong GVC thay vì tự mình phát triển toàn bộ chuỗi sản xuất. Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, FTA thế hệ mới sẽ giúp DN Việt Nam có cơ hội tiếp cận các chuỗi cung ứng mới thay thế cho các chuỗi cung ứng truyền thống vốn đang bị đứt đoạn, đình trệ.

Chỉ số phổ biến mà các quốc gia vẫn dùng để đánh giá sự phát triển của mình là Mức thu nhập bình quân đầu người (GDP trên đầu người). Song kinh tế học hiện đại coi GDP chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ của chất lượng phát triển là chỉ số hạnh phúc của người dân.Và trong khi cả thế giới lựa chọn chỉ số Tổng sản phẩm quốc nội (GDP – Gross Domestic Products) làm thước đo thịnh vượng và phát triển, thì Bhutan – một đất nước nhỏ bé, dân số  trên 700 ngàn người từ năm 1971 đã loại bỏ chỉ số GDP và thay thế bằng một chỉ số mới – GNH – Gross National Happiness – Tổng hạnh phúc quốc dân. Theo đó, 4 điểm mấu chốt để làm nên Hạnh phúc Quốc gia là: phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, bảo tồn văn hóa và lãnh đạo tốt.

Báo cáo hạnh phúc thế giới (WHR – World Happiness Report ) – một ấn bản của United Nations Sustainable Development Solutions Network (Mạng lưới phát triển bền vững Liên Hiệp Quốc) công bố ngày 18-3-2022, cho thấy: Việt Nam xếp thứ 79, nằm ở khu vực giữa trong bảng xếp hạng 146 quốc gia và vùng lãnh thổ được thăm dò. Các láng giềng Đông Nam Á, gồm Singapore hạng 27, Philippines (60),  Thái Lan(61),Mã Lai(70), Indonesia (87), Lào (95), Campuchia (114) và Myanmar (126).

Năm 2010 đánh dấu mốc phát triển quan trọng khi nước ta chuyển từ một nước thu nhập thấp sang nhóm quốc gia có thu nhập trung bình. GDP bình quân đầu người (tính theo giá cố định bằng USD năm 2015) tăng từ 481 USD năm 1986 lên 2.655 USD vào năm 2020.Năm 2021, đạt khoảng 3.743 USD, đứng thứ 6 trong khu vực và thứ 124 trên thế giới. Tuy nhiên, thu nhập bình quân của người dân Việt Nam hiện nay chỉ bằng 40% mức trung bình toàn cầu, 20% mức trung bình của khu vực ASEAN và 5% mức trung bình của các nền kinh tế có thu nhập cao.Việt Nam sẽ mất khoảng 30 năm để đạt được GDP bình quân đầu người hiện nay của Hàn Quốc và 10 năm để đạt được như Trung Quốc…

Thu nhập bình quân đầu người theo giá thực tế

Nhờ những đóng góp tích cực của các thành phần kinh tế, đến nay, cả nước đã có 5.650/8.232 xã về đích nông thôn mới (đạt gần 69% tổng số xã); 221/664 đơn vị hành chính cấp huyện thuộc 54 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, thể hiện trên các khía cạnh sau:

– Sự phối hợp, tương tác giữa Nhà nước, thị trường và xã hội còn bất cập, đặc biệt giữa Nhà nước và thị trường.

– Thách thức trong quá trình tiếp tục hoàn thiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn khá lớn, đặc biệt trong xác định nội hàm nền kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện, bối cảnh mới.

– Quá trình hội nhập kinh tế thông qua các FTA vẫn chưa thực sự “khắc họa” được những tác động tích cực. Việt Nam mới đơn thuần tận dụng được lợi ích tĩnh mang tính ngắn hạn, chưa tận dụng được các lợi ích động mang tính dài hạn, tạo động lực cho đổi mới và sáng tạo, phát huy tối đa nội lực nhằm “bước lên” các “thang bậc” có giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Lợi ích quốc gia thu được từ tiến trình hội nhập chưa tương xứng với tiềm năng, vị thế địa kinh tế, chính trị của đất nước…

Kỷ nguyên số đang thay đổi cấu trúc vận động của thế giới, số phận của các quốc gia, dân tộc và quyền lực của họ.  Bối cảnh kỷ nguyên số đang tăng tốc với rất nhiều yêu cầu, khác biệt so với kinh tế “thực” truyền thống, cả về nguồn lực, đặc trưng và cách thức tương tác, vận hành…, đòi hỏi cải cách, đổi mới phải gắn liền với tốc độ, với sự quyết liệt trong thay đổi, từ nhận thức, tư duy tới hành động. Nếu không Việt Nam có thể bỏ lỡ cơ hội phát triển và tụt hậu xa hơn.

Đại dịch Covid-19 làm đảo lộn mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội. Song Li Edelkoort – một trong những chuyên gia dự đoán xu hướng (trend forecaster) có tầm ảnh hưởng nhất hiện nay, cho rằng: Virus corona đã tặng chúng ta “trang giấy trắng cho một khởi đầu mới”. Virus giống như một “sự sửa chữa tuyệt vời” cho thế giới – thông điệp sâu sắc qua góc nhìn của tỷ phú Bill Gates. Có thể nói đây chính là thời điểm tư duy lại, thiết kế lại, xây dựng lại gắn với việc nhận diện xu thế; định vị thị trường, đối tác; xác định cách thức chuyển đổi số (CĐS); nâng cấp quản trị (cả quản trị rủi ro); sáng tạo sản phẩm; đào tạo kỹ năng mới cho người lao động.

Một số những dấu ấn của kinh tế Việt Nam sau 35 năm đổi mới.

Đại hội XIII của Đảng đã mở ra tầm nhìn, định hướng phát triển mới của đất nước. Đại hội đặt ra mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành trở thành một nước thu nhập cao, thịnh vượng… một Việt Nam “bắt kịp” và “tiến cùng” thời đại.

Nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta sẽ phải là nền kinh tế thị trường hiện đại và giàu tính nhân văn. Định hướng XHCN của mô hình kinh tế thị trường mà ta đang lựa chọn thể hiện ở bản chất nhân văn của nó. Người ta có thể đưa ra nhiều tiêu thức khác nhau để đánh giá “nồng độnhân văn của một nền kinh tế. Tuy nhiên có thể qui tụ lại ở những chuẩn mực sau đây:

1. Tất cả các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của chính phủ, các doanh nghiệp (DN) đều phải tính đến hiệu quả sử dụng tài nguyên; phải được chỉ đạo bởi một tinh thần tối cao rằng: tài nguyên (vốn, lao động, công nghệ và kỹ thuật của sản xuất, kể cả tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, trên rừng và dưới biển) là khan hiếm, cho nên với một nguồn lực hiện có, chính phủ và các DN phải lựa chọn các phương án phát triển nền kinh tế sao cho dân cư có thể thỏa mãn tốt nhất nhu cầu vật chất văn hóa và tinh thần của họ.

2. Để khắc phục những hậu quả xã hội, chính phủ cần phải thành lập và tăng cường hoạt động của các cơ quan bảo hiểm – từ thiện để đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho những người đã rời khỏi đội quân lao động.

3. Chính phủ ngày càng tăng mức chi tiêu cho các hàng hóa dịch vụ công cộng, chăm sóc y tế, giáo dục, đầu tư thích đáng cho việc tái sản xuất ra sức lao động của thế hệ hiện tại và mai sau.

4. Đầu tư cho mai sau một cách tốt nhất là tìm cách thỏa mãn một cách tốt nhất những nhu cầu của hiện tại. Sự tốt đẹp của nền kinh tế trong những chu kỳ sau phải được bắt đầu ngay từ sự đầu tư cho hiện tại.

2.2. Giải pháp cho thời gian tới

Trên thực tế, không bao giờ có thị trường hoàn hảo, nhưng sự can thiệp của Nhà nước phải hướng đến sự hoàn hảo của thị trường, khắc phục, sửa chữa các khiếm khuyết của thị trường. Con đường chuyển sang kinh tế thị trường của Việt Nam vẫn còn dang dở. Hy vọng, chúng ta sẽ nhanh chóng kết thúc quá trình chuyển đổi, để Việt Nam thực sự bước sang kinh tế thị trường hiện đại, theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên,đây không phải là việc làm trong một sớm một chiều, tức khắc có ngay được mà phải là một quá trình gồm nhiều bước chuyển. Theo đó những việc cần làm là:

Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường

Đại hội Đảng lần thứ VII đã quyết nghị đổi mới toàn diện đường lối kinh tế từ bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, coi trọng khuyến khích đầu tư tư bản trên bình diện rộng. Một bước đi thuận quy luật mang giá trị “Chiến lược thích nghi thời đại”, đã tạo được sức hấp dẫn mạnh mẽ. Vấn đề chủ yếu là có tạo ra được những nguyên tắc và tiền đề cần thiết để các thể chế của kinh tế thị trường có thể hoạt động một cách bình thường hay không. Nếu không tạo được những điều kiện, tiền đề như vậy, thể chế kinh tế thị trường có thể tồn tại trên danh nghĩa nhưng không thể phát triển được hoặc sẽ phát triển một cách méo mó, các quan hệ thị trường bị biến dạng nghiêm trọng, gây tổn thất ở mức độ khác nhau cho nền kinh tế.

Đột phá về thể chế được coi là một trong những đột phá chiến lược. Hiện tại, thế giới đang áp dụng bộ chỉ số về Tự do kinh tế (IEF) của Quỹ Di sản để đánh giá về mức độ thị trường của các quốc gia, nền kinh tế. Ngân hàng Thế giới thì có chỉ số Quản trị nhà nước. Thông lệ quốc tế cho thấy, một nền kinh tế có điểm số tốt ở cả 2 bộ chỉ số này là một nền kinh tế thị trường hiệu quả. Đáng tiếc là Chỉ số Quản trị nhà nước của Việt Nam chỉ khoảng 200/600 điểm, còn IEF chỉ quanh ở mức 51-53/100 điểm, thuộc nhóm dưới so với các nền kinh tế khác.

Gần bốn thập kỷ từ sau Đổi mới, thể chế phân bổ nguồn lực vẫn còn tồn tại hiện tượng xin cho và quan hệ thân hữu. Đây là điểm nghẽn rất cơ bản trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam.

Cạnh tranh là nguyên tắc có tính nền tảng, nguyên tắc có tính hiến pháp của kinh tế thị trường, nó đòi hỏi các DN phải hoạt động có hiệu quả và thường xuyên nâng cao hiệu quả để thu được lợi nhuận. Những DN nào yếu kém, thua lỗ sẽ bị phá sản, các nguồn lực của DN đó sẽ được chuyển sang các DN khác, hoạt động có hiệu quả hơn chứ không bị mất đi. Chính vì vậy mà nhà kinh tế Mỹ gốc Áo Alois Schumpeter đã coi “phá sản là một sự tàn phá sáng tạo” (creative destruction).

Việc kiểm soát hoặc ngăn chặn hình thành độc quyền đòi hỏi một quyết tâm chính trị rất cao, vượt qua được những lợi ích của một số nhóm người liên kết với nhau. Độc quyền đem lại những đặc quyền, đặc lợi mới cho một nhóm ít người, trong khi toàn thể xã hội phải trả giá. Vì vậy, duy trì độc quyền trong kinh doanh là phản tiến bộ.

Hội nhập đòi hỏi phải chấp nhận “Luật chơi” và “Cách chơi” khi đi “Chợ thế giới”. Thực tế cho thấy môi trường kinh doanh mặc dù đã được cải thiện song tự do hoá với bên ngoài chưa thực sự đi kèm với tự do hoá các nguồn lực bên trong. Cải cách thể chế môi trường kinh doanh cần có bước đi phù hợp, nhưng phải đặt trong mối quan hệ hệ thống, không tạo ra xung đột pháp lý và mâu thuẫn chính sách, làm sao để nền kinh tế tiếp cận nhanh với các chuẩn mực, thông lệ kinh doanh của thế giới.

Thủ tục hành chính phải được thể chế hóa và đòi hỏi thực thi nghiêm minh. Bên cạnh đó cũng rất cần một đội ngũ cán bộ công chức có năng lực, được đào tạo cơ bản, có đạo đức nghề nghiệp.

Luật Thương mại và các cơ chế, chính sách quản lý rất cần bổ sung và hoàn thiện nhằm tạo điều kiện thực hiện thuận lợi hóa thương mại. Luật thuế xuất, nhập khẩu cũng cần được sửa đổi cho thống nhất, đồng bộ với quy định của Hiến pháp và các bộ luật hiện hành; tương thích với các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc đang đàm phán. Luật DN cần quy định cách tiếp cận mới để kịp thời xử lý các hành vi kinh doanh mới của nền kinh tế số, vừa để không xảy ra “khoảng trống pháp lý”, vừa tạo thuận lợi cho hành vi kinh doanh mới được thực hiện và phát triển.

Rà soát, sửa đổi đồng bộ các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của DN Nhà nước như: Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại DN, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đấu thầu… theo hướng: (i) Phân cấp mạnh mẽ hơn nữa cho cơ quan đại diện chủ sở hữu trong thực hiện một số quyền, trách nhiệm để DNNN hoạt động theo nguyên tắc thị trường; (ii) Thực thi cơ chế giám sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với tập đoàn, tổng công ty theo hướng khuyến khích thuê công ty kiểm toán lớn có đủ năng lực, kinh nghiệm, uy tín thực hiện giám sát, kịp thời đưa ra cơ chế cảnh báo song song với vai trò quản lý nhà nước của bộ ngành, cơ quan đại diện chủ sở hữu; (iii) Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách tiền lương theo nguyên tắc thị trường, gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh; (iv) Đổi mới công tác quản lý người giữ chức danh, chức vụ tại DN để tuyển dụng hoặc thuê nhân lực chất lượng cao; thực hiện cử thành viên Hội đồng thành viên độc lập (các chuyên gia có trình độ, năng lực về tài chính, quản trị…) tham gia quản lý, điều hành. Nghiên cứu cơ chế, chính sách tuyển chọn lãnh đạo quản lý, đẩy mạnh việc tuyển dụng thông qua thi tuyển công khai, minh bạch; (v) Nghiên cứu cơ chế phù hợp tăng nguồn lực cho DN Nhà nước từ lợi nhuận sau thuế và các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư các dự án quan trọng, hiệu quả, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh; (vi) Sửa đổi quy định về chuyển mục đích sử dụng Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của DN để thực hiện các nhiệm vụ: đầu tư cho các vườn ươm trong lĩnh vực liên quan đến khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; đặt hàng các sản phẩm đổi mới sáng tạo; đầu tư cho DN khởi nghiệp sáng tạo…

Cần có khung pháp lý riêng cho đối tượng của hoạt động thanh tra là doanh nghiệp, có thể là một chương trong Luật Thanh tra sửa đổi. Đề đảm bảo giảm gánh nặng thanh tra cho DN, cần xác định rõ quan hệ giữa quy định của luật này với quy định về thanh tra chuyên ngành trong các văn bản luật khác, đảm bảo tuân thủ theo nguyên tắc chung.

Rất cần có bộ máy chuyên môn với chức năng nhiệm vụ rõ ràng, thực thi việc theo dõi, giám sát, đánh giá hiệu lực của pháp luật và thể chế, kiểm soát độ mở của nền kinh tế. Ủy ban Đối ngoại hoặc Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cần có chương trình, kế hoạch (không nhất thiết phải giám sát tối cao), định kỳ 6 tháng hay 1 năm yêu cầu cơ quan chủ trì thực hiện các FTA báo cáo, tạo sức ép khiến các cơ quan thực thi phải thực hiện nghiêm túc các cam kết  FTA.

Đổi mới quản lý kinh tế Nhà nước

Bản chất của quá trình đổi mới là mở không gian cho thị trường vận động, làm thị trường vận hành tốt hơn. Trong quá trình này, mỗi bước mở không gian cho thị trường, để thị trường vận hành tốt hơn, để người dân tự do kinh doanh, thì Nhà nước về quy mô tương đối sẽ thu hẹp lại, đồng thời, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước sẽ thay đổi, phù hợp với mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Nếu thiếu tư duy hệ thống về quản lý Nhà nước phù hợp với sự vận hành của thể chế kinh tế thị trường, thì mọi nỗ lực cải cách riêng lẻ sẽ không mang lại hiệu quả, mà tính mâu thuẫn và phức tạp sẽ ngày càng tăng thêm.

Vai trò kinh tế của Nhà nước là tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DN hoạt động có hiệu quả. Nhằm mục đích đó, Nhà nước với tư cách là cơ quan điều tiết nền kinh tế thị trường, cần phải:

– Hoàn thiện một hệ thống luật dân sự bảo đảm điều chỉnh một cách kín kẽ và đồng bộ các quan hệ hàng hóa – tiền tệ trong nền kinh tế.

– Kế hoạch hóa phát triển kinh tế – xã hội là cần thiết, nhưng phải thay đổi phương pháp, công nghệ kế hoạch hóa. Mô hình kế hoạch hóa nhà nước sẽ là dạng tổ hợp các chương trình có mục tiêu liên quan chặt chẽ với nhau, những chương trình đó được triển khai theo hình thức đấu thầu.

– Xây dựng và duy trì hệ thống tài chính – tín dụng ổn định và điều tiết lưu thông tiền tệ. Phát huy đầy đủ vai trò các đòn bẩy kinh tế, đồng thời coi trọng công cụ pháp luật, tăng cường kiềm chế, kiểm soát của Nhà nước. Chỉ khi Nhà nước kiểm soát được tài chính và tiền tệ thì Nhà nước mới có thể kiểm soát, điều tiết được thị trường.

– Chức năng, vai trò và bản chất của Nhà nước ta – Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Cần phải xây dựng những chương trình của Nhà nước về phát triển giáo dục, y tế, bảo vệ xã hội đối với người lao động.Thực hiện tốt chính sách xã hội, phát huy nhân tố con người, hạn chế bóc lột, sự phân cực giàu nghèo, phát triển các sự nghiệp phúc lợi công cộng, bảo đảm công bằng xã hội.

– Để đẩy nhanh và thực hiện có hiệu quả việc CĐS ở nước ta, trước mắt: (i) Bộ Thông tin và Truyền thông cần đẩy nhanh việc xây dựng dự thảo Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghiệp, công nghệ số. (ii) Luật Sở hữu trí tuệ cần sửa đổi, bổ sung theo hướng: Nội luật hóa sớm hơn và cao hơn so với các cam kết quốc tế để tạo động lực cho DN và thích ứng với môi trường CĐS; Nâng cao năng lực và ý thức bảo hộ sở hữu trí tuệ cho các DN, tổ chức, cá nhân (đặc biệt là ở nước ngoài); Vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến trong việc xử lý dân sự các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ để giảm chi phí cho DN và cá nhân; Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong quản lý sở hữu trí tuệ.

Với quốc gia xác lập con đường tiến lên CNXH, mục tiêu duy nhất là hạnh phúc của nhân dân, thì Nhà nước ấy phải có nhiều công cụ mạnh đủ sức thuyết phục, chi phối khuất phục mọi biểu hiện trái nghịch. Cơ sở kinh tế nhà nước là một trong những công cụ cần thiết để thực hiện vai trò “kiểu mẫu” góp phần tích cực trong quá trình điều tiết cơ chế thị trường, định hướng đi lên cho các thành phần kinh tế xã hội.

Trong cuộc đổi mới, Nhà nước cần đầu tư xây dựng, quản lý cơ sở kinh tế  nhà nước một cách thỏa đáng với vị trí của nó. Nhưng bằng phương pháp hạch toán hoàn toàn – không có chuyện bù lỗ dưới bất cứ dạng thức nào. Cơ sở Nhà nước chịu sự chỉ đạo,định hướng sản xuất của Nhà nước và được ưu tiên đầu tư, song nó phải năng động đua tranh về mọi mặt để vượt lên hàng đầu trên thị trường chứ không phải bằng sự chiếu cố.

Không nên quá chú ý tới mức độ tăng trưởng GDP, mà điều quan trọng là phải tạo ra động lực cho nền kinh tế, tăng được mức sống của người dân.

Đầu tư vào nghiên cứu, phát triển nguồn nhân lực

Sự nghiệp cải cách theo hướng thị trường nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào con người vừa là chủ thể, vừa là động lực của sản xuất. Sẽ không thể có kinh tế thị trường nếu không có những con người nắm vững và vận hành tốt các quy luật của kinh tế thị trường. Như vậy việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho nhu cầu trong cả hiện tại lẫn tương lai là công việc cực kỳ hệ trọng.

Trước mắt cần tập trung đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (Research and Development – R&D), đầu tư vào nguồn lực con người thông qua hợp tác với các DN các nước nước thành viên trong các FTA mà Việt Nam tham gia và tận dụng các nguồn hỗ trợ đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm như “Chương trình quốc gia về nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hoá của DN Việt Nam”; “Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia”; “Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia”; “Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia”…

Đổi mới quản trị doanh nghiệp

Trong bối cảnh mới, chiến lược phát triển của DN trở thành vấn đề cốt tử. Những vấn đề trong đổi mới quản trị chiến lược của DN cần được chú trọng là: i) Hiệu quả về mặt kinh doanh, lợi nhuận thiết thực cho phát triển DN cả trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; ii) Tinh thần thượng tôn pháp luật, về kinh tế, môi trường và xã hội; iii) Xây dựng và quy chuẩn đạo đức kinh doanh. Vì thế, các thành tố: mục tiêu, hướng đi, nguồn lực cần thiết, phương thức vận hành chiến lược theo từng giai đoạn phải tương thích với hoàn cảnh. Mô hình chiến lược được DN chọn nên theo dạng mở, điều chỉnh theo sát thực tế và những thay đổi của môi trường kinh doanh, chỉ nên xác lập tầm nhìn trong thời gian 3 năm.

Nền kinh tế dựa trên số hóa (digitalisation)là một cuộc đua mà nhiều nước và DN đã tham gia. Kinh tế số hóa (Digital Economy) tác động rất lớn đến nhiều mặt của kinh tế – xã hội, đặc biệt khả năng đột phá (disruption), xóa bỏ nhiều mô hình kinh doanh truyền thống. Để đi đúng hướng và theo kịp cuộc đua thì DN phải đương đầu với nhiều vấn đề cốt lõi như: sự tin cậy (trust), bảo mật (security) và thông tin cá nhân (privacy). Cần đầu tư rất nhiều về nhân sự (skills), công cụ (tools) và hạ tầng công nghệ thông tin để có những chính sách, quy trình và mô hình phù hợp. Cần phải học cách thích nghi thông qua việc thay đổi phong cách lãnh đạo, quy trình làm việc nội bộ để dần chuẩn hóa tổ chức bộ máy theo chuẩn quốc tế.

Thu hẹp lĩnh vực hoạt động của DN Nhà nước hiện nay chính là tạo điều kiện để thị trường phân bố có hiệu quả các nguồn lực phát triển và tạo lập đầu tư kinh doanh bình đẳng. Theo đó:

(i) Chỉ duy trì hình thức công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu đối với các DN Nhà nước đang trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh hoặc cung ứng một số sản phẩm, dịch vụ công ích quan trọng, thiết yếu cho xã hội.

(ii) Thực hiện cổ phần hóa các DN Nhà nước còn lại.

(iii) Tiếp tục thoái vốn nhà nước xuống dưới mức chi phối hoặc không cần có vốn nhà nước tại các DN Nhà nước đã cổ phần hóa.

(iv) Nghiên cứu thí điểm mô hình chuyển đổi một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước từ mô hình công ty một thành viên sang công ty cổ phần 100% vốn nhà nước.

(v) Tách giá trị đất ra khỏi giá trị DN khi thực hiện cổ phần hóa và DN sau cổ phần hóa buộc phải thuê đất của Nhà nước cho mục đích sản xuất, kinh doanh, nếu được thực hiện chặt chẽ theo đúng quy định của pháp luật, là một giải pháp cần xem xét, nghiên cứu. 

Đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, không lệ thuộc vào thể chế chính trị, sẽ không thể có kinh tế thị trường nếu không tiến hành tự do hoá thương mại. Đây là một trong những đặc trưng chủ yếu và cũng là nội dung quan trọng nhất của việc vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Với việc từng bước thực hiện những quá trình mang tính qui luật của bước chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, với tự do hoá giá cả và thương mại hoá nền kinh tế là khâu trung tâm đột phá, có thể nói chúng ta đang có thời cơ và vận hội để rút ngắn con đường phát triển của mình mà lịch sử thế giới đã phải trải qua hàng trăm năm mới có.

“Va đập lớn” sẽ có rạn nứt, thậm chí đổ vỡ, nhưng cũng sẽ là cơ hội để vượt lên với những ai đủ sức chịu đựng, vượt qua được sức ép đó. Cơ hội lớn nhất sẽ dành cho những người sáng tạo nhất, không chấp nhận phương thức cũ,vượt lên trên lối mòn tư duy để tạo ra những động lực đưa cả đất nước tiến lên .

Làm thế nào để nước ta có thể cải thiện được phần của mình trong thu nhập của thế giới ? Lời khuyên đặt ra là: “Chúng ta phải từ bỏ việc cố tìm ra điều sẽ phải làm bằng cách dựa vào điều chúng ta đã làm. Ở thế kỷ 21, người chiến thắng là những ai đứng phía trước đường cong thay đổi, tạo ra thị trường mới, khai phá con đường mới, sáng tạo lại các quy tắc cạnh tranh, thách thức với hiện trạng… Đó là những người sáng tạo ra thế giới chứ không phải những người chỉ biết ứng phó với thế giới ”. Đây chính là bài học kinh nghiệm của các con rồng châu Á mà Việt Nam cần phải học tập./.

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại – VIOIT