Tính ưu việt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

CNQP&KT – Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới, từ đó đã đem lại những thay đổi to lớn cho công cuộc đổi mới đất nước.

Trong những năm qua, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị luôn tìm cách xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng căn cứ vào việc phát triển kinh tế tư nhân và điều tiết kinh tế bằng các quy luật của thị trường trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH để quy chụp Việt Nam “đi theo con đường tư bản chủ nghĩa một cách nửa vời” và coi đó là “phản khoa học” và sai lầm! Cùng với đó, một số người thiếu nhãn quan chính trị cũng hùa theo, đánh giá phiến diện, chưa thấy hết được những nguyên tắc, bản chất, nội dung xây dựng CNXH ở Việt Nam. Thực ra, việc xác định một nền kinh tế là “chủ nghĩa xã hội” hay “tư bản chủ nghĩa” không thể dựa vào tiêu chí về kinh tế tư nhân hay sự điều tiết của thị trường, mà quan trọng hơn là phải dựa vào tiêu chí về mục tiêu phát triển nền kinh tế; bản chất, nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế; quá trình hình thành, phát triển của nền kinh tế…

Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đại hội IX (năm 2001) của Đảng khái quát là kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), từng bước được bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội X, XI, XII của Đảng. Đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”1.

Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội”2. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, vừa vận động theo những quy luật của KTTT, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội (CNXH).

Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế đang ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH nên tất yếu tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm huy động mọi nguồn lực để phát triển, trong đó kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng. Đưa ra quan niệm phát triển KTTT định hướng XHCN là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới, từ đó đã đem lại những thay đổi to lớn cho đất nước.

Tính ưu việt của phát triển KTTT định hướng XHCN được thể hiện trên các nội dung sau:

Một là, mục đích của nền KTTT là nhằm phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Cùng với việc phát triển lực lượng sản xuất phải từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới tiên tiến, hiện đại. Đây là điểm khác biệt cơ bản và thể hiện tính ưu việt hơn so với nền KTTT tư bản chủ nghĩa. Kinh tế tư bản lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Do vậy, đã tạo nên các cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính, khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái…

Hai là, KTTT định hướng XHCN ở nước ta thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, khác biệt căn bản với KTTT tư bản chủ nghĩa lấy tư hữu về tư liệu sản xuất. Chính vì chế độ tư hữu ấy mà: “Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản”3.



Một góc thành phố Hồ Chí Minh phát triển tiên tiến, hiện đại. Ảnh: CTV

Ba là, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta thực hiện đa hình thức sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân, hỗn hợp), từ đó hình thành nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài… Trong các thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Trái ngược lại, kinh tế tư bản chủ nghĩa thì lấy kinh tế tư nhân là chủ đạo. Đây không chỉ là điểm khác biệt căn bản với nền KTTT tư bản chủ nghĩa, mà còn phản ánh sự nhận thức mới của Đảng về củng cố và phát triển kinh tế XHCN. Trên cơ sở tiếp tục phát triển hai thành phần kinh tế (kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể) trước đây, còn khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân cùng phát triển nhằm hình thành nền KTTT rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc cả chế độ công hữu và chế độ tư hữu, cùng các hình thức liên doanh, liên kết sâu rộng ở cả trong và ngoài nước.

Bốn là, KTTT ở nước ta có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền theo định hướng XHCN. Vai trò quản lý của Nhà nước XHCN là cực kỳ quan trọng, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định, đạt hiệu quả cao, đồng thời bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Không ai ngoài Nhà nước có thể giảm bớt được sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền trong điều kiện phát triển nền KTTT. Theo đó, Nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất, bảo đảm cho thị trường phát triển, tuân thủ các quy luật của KTTT. Đồng thời, Nhà nước phải bảo đảm được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong việc chấp hành các chế độ chính sách, sử dụng các chương trình đầu tư tín dụng để tạo điều kiện và hướng dẫn các ngành, các địa phương và các thành phần kinh tế cùng phát triển. Giải quyết quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong xây dựng nền KTTT định hướng XHCN chưa có tiền lệ trong lịch sử và là một quá trình mở, thể hiện sự sáng tạo và bản lĩnh trí tuệ của Đảng, trên cơ sở nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của KTTT, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam.

 

“Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN”.

 (Nguồn: Văn kiện Đại hội XIII của Đảng)

Năm là, KTTT định hướng XHCN ở nước ta thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời có sự kết hợp các hình thức phân phối khác (theo vốn, theo phúc lợi xã hội, theo tài năng đóng góp…). Với nhiều hình thức phân phối khác nhau vừa khuyến khích người lao động hăng hái đóng góp tài năng của mình cho phát triển kinh tế đất nước, vừa có điều kiện trợ cấp cho các đối tượng yếu thế trong xã hội. Định hướng XHCN trong phân phối không chỉ cung cấp cho người nghèo cái họ cần mà còn là tạo ra nhiều cơ hội, khả năng để họ tham gia vào các hoạt động kinh tế nhằm tăng thu nhập, nâng cao mức sống, khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội. Ngoài ra, còn được thể hiện ở việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách phát triển đối với các vùng, miền, lĩnh vực và bảo đảm tăng trưởng kinh tế phải gắn với phát triển y tế, văn hóa, giáo dục và giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, phát triển con người một cách toàn diện, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người vào phát triển đất nước.

Sáu là, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay khác với nền kinh tế khép kín, kinh tế chỉ huy, tự cấp tự túc trước đây. Ngày nay, do tác động của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ mang lại sự phụ thuộc giữa các quốc gia trong quá trình phát triển ngày càng nhiều hơn. Do vậy, đòi hỏi mở cửa hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới là yêu cầu khách quan. Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta phát triển theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới, thực hiện những cam kết và thông lệ quốc tế, đồng thời giữ vững độc lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ đối ngoại.

Thực tiễn công cuộc đổi mới, việc phát triển nền KTTT định hướng XHCN đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, tốt đẹp cho đất nước trong hơn 35 năm qua, với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7%/năm. Quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP) không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ liên tục tăng và hiện chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó thể hiện rõ tính ưu việt và khả năng phát triển của KTTT định hướng XHCN ở nước ta.

Như vậy, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam khác về chất so với KTTT tư bản chủ nghĩa. Do đó, cần phải kết hợp chặt chẽ những mặt tích cực của cơ chế thị trường với bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội để phát triển một nền KTTT hiện đại, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, hội nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường quốc tế, bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.

Đại tá, TS. NGUYỄN HỮU HOẠT

Học viện Hậu cần – Bộ Quốc phòng

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1, 2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, t. 1, tr. 128 – 129.

3. Nguyễn Phú Trọng, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Báo Nhân Dân, ngày 16/5/2021.