Suy nghĩ về cái chết của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương

Chuyện người con gái Nam Xương là một trong những tác phẩm tái hiện thành công cuộc đời và số phận bất công của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Trong đó, cái chết của Vũ Nương là minh chứng rõ ràng nhất cho điều ấy. Mời bạn đọc tham khảo bài văn mẫu: “Suy nghĩ về cái chết của nhân vật Vũ Nương” qua bài viết sau đây!

1. Dàn ý 

1.1. Mở bài

– Nêu sơ lược về tác giả, tác phẩm và giới thiệu về nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương”.

– Nêu cảm nhận chung về ý nghĩa cái chết của nhân vật trong tác phẩm.

 

1.2. Thân bài

a. Khái quát đôi nét về chân dung nhân vật

– Trước khi kết hôn: sinh ra và lớn lên trong gia đình nghèo khó, tư dung tốt đẹp

– Sau khi kết hôn:

  • Là người vợ hiền, hết mực gìn gữ khuôn phép, chung thuỷ, giữ trọn phẩm tiết
  • Là người con dâu hiếu thảo, chăm sóc, phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo, tận tâm

– Sau khi gieo mình xuống sông:

  • Được các nàng tiên cứ thoát và sống nơi cung nước
  • Gặp lại Phan Lang – người quen cùng làng. Nàng quyết định trở về nhân gian gặp Trương Sinh trong phút chốc rồi nói lời từ biệt

b. Cái chết của Vũ Nương phản ánh bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến

– Trương Sinh cả ghen là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của Vũ Nương. Nếu Trương Sinh tin tưởng vợ, biết kiềm chế cơn nóng giận thì có lẽ kết cục đã khác.

– Mặc dù Trương Sinh là nguyên nhân chính dẫn đến cái chết của Vũ Nương nhưng sâu xa hơn là do chế độ phong kiến đã không bảo đảm được quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ. Số phận của họ mỏng manh, yếu đuối và những tai hoạ có thể ập xuống đầu họ bất cứ lúc nào.

– Chi tiết “cái bóng” xuất hiện rất ngẫu nhiên, phi ký nhưng chính nó đã quyết định số phận của một người phụ nữ.

– Vũ Nương tuyệt vọng, quyết lấy cái chết để chứng minh bản thân trong sạch

– Cái chết của nàng thể hiện sự cùng quẫn, bế tắc tột cùng. Cái chết ấy đã vượt ra khỏi giới hạn bi kịch của một gia đình. Đó là bi kịch số phận của một lớp người trong xã hội phong kiến.

– Nguyên nhân dẫn đến cái chết của Vũ Nương

  • Sự ghen tuông đến mù quáng, u tối của Trương Sinh
  • Chế độ nam quyền với hệ tư tưởng trọng nam khinh nữ
  • Cuộc chiến tranh phi nghĩa khiến gia đình li tán, sự cách biệt chính là nguyên nhân nảy sinh những nghi ngờ và mâu thuẫn
  • Lời nói ngây thơ của con trẻ lại là chất xúc tác làm bùng lên cơn ghen của Trương Sinh.

 

1.3. Kết bài

Khái quát lại ý nghĩa cái chết của Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương”.

 

2. Bài mẫu số 1

Trong nền văn học trung đại Việt Nam, bên cạnh tác kiệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du thì “Chuyện người con gái Nam xương” cũng là một tác phẩm xuất sắc tái hiện thành công số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Điều này được thể hiện rõ nét nhất thông qua cái chết tức tưởi, oan khuất của nhân vật Vũ Nương – chi tiết tượng trưng cho sự tuyệt vọng đến cùng quẫn của người phụ nữ trong xã hội đầy rẫy bất công. Trong tác phẩm, Nguyễn Dữ đã vận dụng cả tư tưởng Nho giáo lẫn tư tưởng Phật giáo để giải quyết nỗi bất hạnh của Vũ Nương, nhưng qua cái chết của nàng, có thể thấy nhà văn đã bất lực vô cùng trước diễn biến của hiện thực xã hội phong kiến xưa. 

Vũ nương là một người con gái xinh đẹp, hiền dịu, có tư dung tốt đẹp, tính cách thuỳ mị, nết na – là điển hình cho mẫu người phụ nữ trong xã hội xưa nên đã khiến cho Trương Sinh đem lòng yêu mến. Sau khi kết hôn với Trương Sinh, nàng hết mực giữ gìn phẩm hạnh, khuôn phép. Khi chồng đi lính, nàng một mình nuôi con nhỏ, hiếu thuận với mẹ chồng và một lòng một dạ chung thuỷ chờ chồng. Trương Sinh trở về từ chiến trường, tưởng rằng hạnh phúc đã mỉm cười với Vũ nương, không ngờ, nàng lại rơi vào bi kịch. Vì tin vào lời nói ngây thơ của bé Đản – con trai nhỏ của mình, Trương Sinh đã hiểu nhầm, nghi ngờ sự thuỷ chung của Vũ Nương và ruồng rẫy nàng. Trước sự ghen tuông mù quáng của chồng, Vũ Nương hết lời thanh minh cho sự trong sạch của bản thân nhưng không nhận được sự thấu hiểu mà chỉ nhận lại sự ghét bỏ từ Trương Sinh. Quá tuyệt vọng, nàng phải tìm đến cái chết bi thảm để rửa sạch nỗi oan của mình.

Trước hết, cái chết của Vũ Nương là chi tiết phản ánh chân thực nhất bi kịch của nhân vật này. Dù là người phụ nữ có tư dung tốt đẹp, có ý thức giữ gìn tiết hạnh nhưng nàng vẫn phải gánh chịu bi kịch bị ruồng rẫy, bị coi thường và phải chịu sự đánh giá bất công, hà khắc bởi chế độ phong kiến và tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Khi bị chồng hiểu nhàm về sự thuỷ chung của mình, nàng như rơi vào hố sâu tuyệt vọng và không thể tìm được cách minh oan cho bản thân nên nàng chỉ còn cách nhảy sông tự vẫn.

Đối diện với lời buộc tội cay nghiệt của Trương Sinh, Vũ Nương mượn bến Hoàng Giang để minh oan cho tấm lòng trong trắng của mình: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời giãi bày của nàng đã thể hiện sự bất lực khi tìm đến cái chết sau những cố gắng không thành. Hành động tự vẫn là hành động quyết liệt nhất mà nàng có thể thực hiện để bảo vệ phẩm giá của mình. Đối với nàng, phẩm giá và tiết hạnh quan trọng hơn cả sự sống. Cái chết là lựa chọn cuối cùng để nàng minh oan và bảo toàn danh dự. Cái chết của nàng thể hiện sự cùng quẫn, bế tắc không lối thoát, đồng thời thể hiện rõ số phận đầy bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

Cái chết oan uổng và đầy đau đớn của Vũ Nương đã gián tiếp lên án, phê phán chế độ nam quyền, xem trọng quyền uy, tiếng nói của người đàn ông trong gia đình. Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh ban đầu cũng xuất phát từ tình yêu nhưng tình yêu ấy không đủ để cuộc hôn nhân trở nên bình đẳng bởi Trương Sinh chỉ cần “nói với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ”. Trong những ngày tháng làm dâu con nhà họ Trương, nàng không giây phút nào là không giữ gìn khuôn phép trước tính đa nghi của chồng. Ngoài ra, cuộc chiến tranh phi nghĩa cũng chính là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương khi nàng phải sống trong cảnh ly tán, con không biết mặt cha. Bởi vậy, lời nói ngây thơ của bé Đản mới có thể vô tình trở thành chất xúc tác tạo nên nút thắt cho sự hiểu nhầm của Trương Sinh sau những tháng ngày xa cách vợ con. Có thể nói, sống trong xã hội phong kiến bất công, phải gánh chịu những tổn thương tinh thần như thế nên Vũ Nương mới đành phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức là bi kịch không lối thoát này. Qua đó, chúng ta có thể thấy được niềm thương cảm của tác giả Nguyễn Dữ với số phận oan nghiệt của người phụ nữ.

Như vậy, tác phẩm đẫ kết hợp nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ đã khiến cho “Truyền kì mạn lục” là điển hình của thể truyền kỳ, là  “thiên cổ kỳ bút”, “là áng văn hay của bậc đại gia”, tiêu biểu cho những thành tự của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới sự ảnh hưởng của sáng tác dân gian. Qua cái chết đầy bi kịch của nhân vật Vũ Nương, chúng ta có thể thấy rõ sự bất hạnh mà người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa phải gánh chịu.

 

3. Bài mẫu số 2

“Truyền kỳ mạn lục” là tập sách ghi chép những câu chuyện kỳ lạ trong dân gian. Những mục đích cốt lõi của nó nhằm phản ánh bản chất xã hội phong kiến đương thời. Qua các thiên truyện, Nguyễn Dữ đã bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão, phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm về nhiều vấn đề trong xã hội với thái độ nghiêm khắc, khách quan. Nổi bật trong hai mươi thiên truyện ấy, “Chuyện người con gái Nam Xương” là để lại ấn tượng sâu sắc nhất, thể hiện thành công nỗi bất hạnh tột cùng của người phụ nữ thời phong kiến.

“Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm có cốt truyện đơn giản nhưng Nguyễn Dữ đã chú trọng đến việc xây dựng hình tượng nhân vật người phụ nữ khá toàn vẹn. Bút pháp tự sự cũng có nhiều chuyển biến rõ rệt. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và kịch. Đó là sự hoà quyện giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và cả thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hoà và sinh động. 

Tất cả những dụng công sâu sắc ấy chỉ nhằm lý giải những vấn đề liên quan đến cái chết của nhân vật Vũ Nương. Nguyễn Dữ đã rất công phu dồn nén trong hình tượng nhân vật ấy nhiều ý nghĩa, nhiều vấn đề của thời đại mà ông vốn rất quan tâm. Từ đó, cũng như các nhà nhân đạo khác, ông đi tìm kiếm một lối thoát, một lời giải đáp cho số phận của người phụ nữ. 

Nguyễn Dữ hẳn đã rất tâm huyết khi vận dụng tư tưởng Nho giáo lẫn tư tưởng Phật giáo để giúp đỡ nhân vật Vũ Nương, nhưng đến cuối cùng ông cũng đàng bất lực và để cho Vũ Nương rơi vào hoàn cảnh phải lấy cái chết để thanh minh cho bản thân. Việc để Vũ Nương tìm đến cái chết là tìm đến giải pháp tiêu cực nhất. Nhưng dường như đó là cách duy nhất để thoát khỏi nỗi bất hạnh của nàng. Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Đối với nàng, phẩm giá còn quan trọng hơn cả mạng sống. Câu chuyện của nàng là bi kịch của một gia đình. Đó là chuyện trong nhà, một vụ ghen tuông thường thấy. Vũ Ngương là người phụ nữ xinh đẹp, hiền đức, nhưng số mệnh của nàng khiến nàng lấy phải người chồng hay ghen – nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của nàng. Tuy nhiên, suy nghĩ sâu xa thì có thể thấy câu chuyện đau lòng đã vượt ra ngoài khuôn khổ của một gia đình. Nó buộc chúng ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh của người phụ nữ  trong xã hội đầy những bất công và tai hoạ. Đó là xã hội nam quyền bất công và tàn bạo ở nước ta – cái xã hội đã sản sinh ra người chồng như Trương Sinh. Họ đã quá nhẫn tâm chà đạp lên quyền được hạnh phúc của người phụ nữ, dẫn đến cái chết thảm thương của những người phụ nữ yếu đuối như Vũ Nương. Đồng thời, chiến tranh phong kiến cũng là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương, gây nên cảnh sinh li, góp phần dẫn đến cảnh tử biệt. Trương sinh vốn đã là người đàn ông có tính đa nghi và hay ghen, thêm thời gian xa cách nơi biên ải đã dẫn đến bất hạnh của Vũ Nương. 

Có thể nói, ngoài việc chú trọng xây dựng nội dung hoàn chỉnh và sâu sắc, chuyện đã đạt đến sự tiến bộ trong nghệ thuật tự sự. Trước hết là thành công trong nghệ thuật xây dựng chi tiết, bởi chỉ cần một vài chi tiết, tác giả đã đẩy mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm, cùng với đó là những ngôn từ mộc mạc giản dị đã khiến cho tác phẩm được mệnh danh là “áng văn hay của bậc đại gia”.

 

4. Bài mẫu số 3

Nếu như cái chết đầy bi thương của lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao gợi lên trong tâm hồn người đọc một sự thương xót vã căm phẫn xã hội bất công, tàn bạo đã bóp nghẹt quyền sống của người dân, để họ phải tìm đến lối thoát duy nhất là cái chết thương tâm. Thì với tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, người đọc sẽ càng cảm thấy đau lòng hơn bởi sự bất hạnh của người phụ nữ lại đến từ một lời nói ngây thơ của con trẻ.

Chính vì sự đa nghi và cũng bởi sự vũ phu nam quyền độc đoán, vì sự bất công, coi rẻ mạng sống người phụ nữ mà Trương Sinh đã đẩy vợ vào đường cùng không lối thoát. Sự ra đi của nàng là cách duy nhất để chứng minh cho nỗi oan khuất của bản thân, là chút hy vọng cuối cùng để níu giữ lại phẩm giá tốt đẹp của người phụ nữ. Sự ra đi của Vũ Nương để lại trong lòng người đọc biết bao niềm cảm thương, đau đớn, bao nhiêu tiếc nuối cho một kiếp “hồng nhan bạc mệnh” quá đỗi xót xa trong lòng xã hội lúc bấy giờ. Có thể thấy thoắt ẩn thoắt hiện trong trang văn của Nguyễn Dữ là một niềm thương cảm quặn xé trước bi kịch ngang trái của Vũ Nương, là lời tố cáo đanh thép một chế độ xã hội với những hủ tục lạc hậu qua lời văn của Nguyễn Dữ thấm đẫm sâu sắc giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.

Trước và sau sự bất hạnh của Vũ Nương, ta cũng đã từng bắt gặp nỗi bất hạnh của Thị Kính, Thuý Kiều – họ đều là nạn nhân của lễ giáo phong kiến dù bị oan khuất, bị vùi dập về cả thể xác lẫn tinh thần, dù phải sống dưới lớp bùn đen nhơ nhớ của xã hội tanh bẩn nhưng ở họ sẽ mãi ngời sáng vẻ đẹp về phẩm chất để cho người đương thời và mãi mãi về sau khâm phục, nâng niu.

 

5. Bài mẫu số 4

“Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta thế kỉ XVI, một tập truyện văn thơ đầu tiên bằng chữ Hán ở Việt Nam. Trong đó, “Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm.

Truyện kể rằng, Vũ Thị Thiết là một phụ nữ đức hạnh ở Nam Xương, chồng là Trương Sinh, người nhà giàu nhưng không có học, tính lại đa nghi. Triều đình bắt lính, Trương Sinh phải tòng quân trong khi vợ đang mang thai. Chồng đi xa mới được mười ngày thì nàng sinh con trai đặt tên là Đản. Đến khi giặc tan, việc quân kết thúc, Trương Sinh trở về thì con đã biết nói, nhưng nhất định đứa trẻ không nhận Trương Sinh là cha và nói rằng cha đến tối mới về. Tính Trương Sinh vốn sẵn đa nghi, nghe con nói thì nghĩ rằng vợ không giữ lòng chung thuỷ nên đã vu oan, đuổi vợ đi, khiến cho nàng oan ức mà nhảy sông tự vẫn. Có thể nói, Nguyễn Dữ có cái tài kể chuyện đỉnh cao, đẩy câu chuyện lên cao trào chỉ bằng những chi tiết vô cùng đơn giản. Bi kịch của gia đình hoàn toàn có thể không xảy ra khi Trương Sinh hỏi rõ vợ về câu nói của con trai, nhưng Trương Sinh lại không sẵn sàng chia sẻ, khiến cho nàng không có lấy một cơ hội để minh oan cho bản thân.

Một người phụ nữ đức hạnh, tâm hồn như ngọc sáng lại bị vu oan không gìn giữ lòng chung thuỷ bởi một lời nói của con trẻ mà phải tìm đến cái chết bi thảm, ai oán trong lòng sông thăm thẳm. Câu chuyện đau lòng vượt ra ngoài khuôn khổ của một gia đình, nó buộc chúng ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh của con người trong một xã hội mà những oan khuất, bất công có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Tính ghen tuông cá nhân cộng với tư tưởng “nam quyền” trong xã hội đã làm nên một Trương sinh độc đoán đến kì lạ, đứa trẻ nói thì tin ngay, trong khi vợ giãi bày giải thích, hàng xóm khuyên can thì nhất quyết không nghe. Hậu quả chính là cái chết thảm thương của Vũ Nương, mà nguyên nhân sâu xa là chế độ phong kiến bất công cùng chế độ “nam quyền” bất bình đẳng của nó đã gây ra bao nhiêu tai hoạ cho người phụ nữ nói riêng và con người thời đó nói chung.

 

6. Bài mẫu số 5

“Truyền kì mạn lục” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nền văn học Trung đại Việt Nam. Trong đó “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện tiêu biểu nhất, đặc biệt khiến cho người đọc ám ảnh bởi cái chết của Vũ Nương.

Vũ Nương là người con gái quê ở Nam Xương, thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp nên được Trương Sinh đem trăm lạng vàng đến cưới về làm vợ. Biết chồng có tính đa nghi nên Vũ Nương hết mực giữ gìn để gia đình tránh cảnh bất hoà. Khi đất nước có chiến tranh, Trương Sinh bị bắt đi lính, Vũ Nương ở nhà sinh con, nuôi dạy con và hết lòng chăm sóc mẹ chồng. Vậy mà đến khi Trương Sinh trở về, nghe lời ngây thơ từ con trẻ, chàng nghi oan cho vợ mình là thất tiết. Vũ Nương chịu oan khuất vẫn hết lời giải thích. Cuối cùng, nàng biết không thể rửa sạch nỗi oan liền nhảy sông tự vẫn để chứng minh cho tấm lòng trong trắng của mình.

Nguyên nhân chính dẫn đến cái chết của Vũ Nương là do sự đa nghi độc đoán của Trương Sinh. Mà Trương Sinh chính là đại diện của xã hội nam quyền lúc bấy giờ. Chính cái tư tưởng nam quyền với những bất công đã đẩy người phụ nữ vào cuộc đời bất hạnh. Họ phải phụ thuộc vào những người đàn ông: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, bất hạnh có thể đến với họ bất cứ lúc nào mà họ không thể phản kháng lại.

Đồng thời, chiến tranh cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết của Vũ Nương. Chiến tranh chia cắt hạnh phúc gia đình, khiến cho lòng đa nghi của Trương Sinh ngày càng lớn. Chi tiết “cái bóng” xuất hiện, tưởng chừng đó chỉ là cách để Vũ Nương nhắc đến cha cho con trai của mình, không ngờ đó chính là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của nàng sau này.

Có thể nói, bi kịch của Vũ Nương đã vượt qua giới hạn của một cá nhân, đó là bi kịch chung của tất cả phụ nữ trong xã hội xưa. Cái chết của nàng chính là kết cục tất yếu cho những bi kịch ấy.

Lời con trẻ chỉ là lời nói ngây thơ nhưng lại vô tình khiến cho Trương Sinh ghen tuông,

Trên đây là dàn ý và bài văn mẫu “Suy nghĩ về cái chết của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương” mà Luật Minh Khuê muốn cung cấp tới bạn đọc. Hy vọng bài viết này đã mang đến cho bạn những kiến thức bổ ích. Xin chân thành cảm ơn!