Quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay – Thông tin lý luận – ĐUK Các cơ quan TP Hà Nội

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một vấn đề lý luận cốt yếu trong lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Việc nghiên cứu làm rõ vấn đề này mang tính cấp thiết và cần phải tiếp tục được làm rõ. Cuốn sách Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay phần nào đáp ứng yêu cầu lý luận và thực tiễn đất nước đặt ra.

Thời gian qua đã
có hàng chục nghìn công trình,
bài viết xoay quanh chủ đề này. Tuy nhiên, cũng
còn nhiều ý kiến khác nhau, kể cả những
nhà nghiên cứu theo lập trường mác-xít.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước
trên thế giới cũng đã thay đổi. Hệ thống xã hội
chủ nghĩa hiện thực đã tan rã hoàn toàn
ở châu Âu, những nước xã hội chủ nghĩa còn
lại đã mở cửa, cải cách, đổi mới toàn diện để
bước vào giai đoạn phát triển mới. Trong bối cảnh
đó, cuốn sách Quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay
 do TS. Phạm Tất Thắng và PGS, TS. Nguyễn
Linh Khiếu đồng chủ biên góp phần làm rõ
vấn đề lý luận cốt yếu trong lý luận cách mạng
xã hội chủ nghĩa về con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Là kết quả của đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước
“Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị
giai đoạn 2011 – 2015”, mã số KX.04/11-15, cuốn
sách gồm 408 trang được chia thành 5 chương. Chương I:
Cơ sở lý luận, phương pháp luận nghiên cứu thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa; Chương II: Kinh nghiệm của các nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa; Chương III: Bối cảnh mới của quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn
hiện nay; Chương IV: Quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam: Nhận thức, thực tiễn
và những vấn đề đặt ra; Chương V: Quan điểm, giải pháp
lý luận và thực tiễn nhằm thực hiện thành
công các mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 

Các tác
giả của cuốn sách Quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay 
đã khảo lược quan niệm của chủ nghĩa Mác
– Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản. Học thuyết
hình thái kinh tế – xã hội của chủ nghĩa
Mác – Lê-nin đã khẳng định: Sự thay thế của
các hình thái kinh tế – xã hội là
quá trình lịch sử – tự nhiên và sự thay
thế hình thái kinh tế – xã hội này bằng
hình thái kinh tế – xã hội khác bao giờ
cũng trải qua một quá trình biến đổi, chuyển đổi,
đó là thời kỳ quá độ. Thời kỳ quá độ
là một tất yếu lịch sử, có thể diễn ra dài,
ngắn khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện lịch sử –
xã hội cụ thể của từng nước khác nhau. Bên cạnh
đó, V.I. Lê-nin khẳng định: Cần phải có một thời
kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội. Bởi đây là sự thay
đổi về chất, khác với tất cả các hình
thái kinh tế – xã hội đã tồn tại trong lịch sử
xã hội loài người. 

Trong chương II,
các tác giả đã chỉ ra kinh nghiệm quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua tư bản chủ nghĩa từ sự
phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực và
phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, kinh nghiệm của
Liên Xô, Đông Âu, Cuba, các nước Mỹ
Latinh và đặc biệt là Trung Quốc. Kinh nghiệm thế giới
đã chỉ ra rằng: Về kinh tế, cần phải phát triển kinh
tế nhiều thành phần để huy động mọi tiềm năng sản xuất như
vốn, kỹ thuật, quản lý, tăng thu nhập, nâng cao đời
sống của nhân dân trong thời kỳ quá độ. Về
chính trị, cần phải giữ ổn định chính trị trên
cơ sở độc lập, tự chủ. Vấn đề đặt ra hiện nay của các nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa là việc đổi mới tư duy lý luận về chủ
nghĩa xã hội và giải quyết các đặc điểm
dân tộc trong con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của mỗi nước. 

Các tác
giả đã chỉ ra thời đại ngày nay là thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới với các xu thế:
toàn cầu hóa; hòa bình, hợp tác,
phát triển; dân chủ hóa đời sống quốc tế;
nêu cao ý thức độc lập, bảo vệ lợi ích dân
tộc; đa cực hóa đời sống kinh tế – chính trị thế giới.
Do vậy, cũng đang đặt ra nhiều cơ hội cũng như thách thức
trong việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên,
phân tích đặc điểm thời đại ngày nay càng
cho thấy, việc Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phù hợp với xu
thế phát triển của thời đại.

Vận dụng và
phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lê-nin vào điều kiện lịch sử cách mạng Việt Nam,
Đảng ta luôn khẳng định, theo quy luật tiến hóa
của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên chủ
nghĩa xã hội
 và kiên định con đường
đó. Tuy nhiên, xuất phát từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến, Đảng ta đặt lên hàng đầu nhiệm
vụ chống đế quốc để giải phóng dân
tộc. Nhiệm vụ chống phong kiến đem lại ruộng đất
cho dân cày được tiến hành từng bước. Sau khi
giành được thắng lợi trong cách mạng dân tộc
dân chủ, phải chuyển tiếp lên cách mạng xã
hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển
của chủ nghĩa tư bản với thời kỳ quá độ lâu dài,
khó khăn, nhiều chặng đường. Các nước đang phát
triển tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã
hội sẽ dễ dàng hơn, thời gian ngắn hơn. Nhưng nước ta, xuất
phát điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn phát triển của tư bản chủ nghĩa,
chắc chắn sẽ lâu dài hơn, khó khăn hơn, phức tạp
hơn và sẽ trải qua nhiều chặng đường hơn.

Thời kỳ trước năm 2001,
Đảng ta xác định quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đến
Đại hội IX của Đảng (năm 2001), Đảng ta có bước phát
triển mới về thời kỳ quá độ là “bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa”, tức là bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng kế thừa những thành tựu
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt những thành
tựu về khoa học – công nghệ để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. 

Trong chương IV,
các tác giả đã chỉ ra một số đặc điểm cơ bản
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản ở Việt Nam hiện nay, đó là: 

– Từ nước có nền
sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội không qua
chủ nghĩa tư bản, nhưng không theo cơ chế kế hoạch hóa,
tập trung bao cấp nữa mà chuyển sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.

– Chịu sự tác
động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ
và xu thế toàn cầu hóa. Cộng đồng quốc tế đang
đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu, kinh
tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật.

– Việt Nam vẫn bị
các thế lực thù địch tiến hành bao vây,
chống phá.

Với những đặc điểm
nêu trên, nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản ở Việt Nam
hiện nay: Một là, từng bước khắc phục dần căn
bệnh đối lập một cách trừu tượng chủ nghĩa tư bản với chủ
nghĩa xã hội. Hai là, tuân theo quy
luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Ba là, xử lý quan hệ sở hữu dựa
trên tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế và thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Bốn là,
thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế
hoạch. Năm là, ngày càng đề cao
sản xuất hàng hóa. Sáu là,
thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hợp tác, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế.

Nhiệm vụ chủ yếu của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay được nhóm tác
giả sách chỉ ra là:

– Bố trí lại cơ
cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư và rút ngắn
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với
phát triển kinh tế tri thức.

– Cần có
chính sách nhất quán với các
thành phần kinh tế.

– Xây dựng
Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dựa trên
nền tảng liên minh công nhân, nông dân
và trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng
tiên phong của giai cấp công nhân.

Để thực hiện tốt nội
dung, nhiệm vụ của của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế độ tư bản ở Việt Nam cần phải giữ vững nền
tảng lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng thời, phải
xuất phát từ thực tiễn đất nước, nhất là quy luật về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
nông nghiệp. Phải nhận thức một cách đầy đủ và
toàn diện bối cảnh mới của đất nước và thế giới hiện
nay. Phải kiên trì giữ vững vai trò lãnh
đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng
Việt Nam. 

Trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, Việt Nam xác định phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là thành
tựu nổi bật cả về lý luận và thực tiễn trong thời kỳ
đổi mới ở Việt Nam. Tuy nhiên, xã hội là một cơ
thể thống nhất và đồng bộ. Các lĩnh vực của đời sống
xã hội trong quá trình vận động và
phát triển dù có sự không đồng đều, nhưng
về cơ bản phải tương thích và thống nhất với nhau tạo
thành một tổng thể hoàn chỉnh. Nhưng hiện nay, Việt
Nam mới thừa nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, còn các lĩnh vực khác như: nhà
nước, văn hóa, xã hội… đều được khẳng định
là xã hội chủ nghĩa. Như vậy, về mặt lý luận
và thực tiễn là chưa nhất quán, dẫn đến
khó điều hành và triển khai. Do vậy,
nhóm tác giả đề xuất quan điểm trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa cần tập trung triển khai bốn trụ cột là: Kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước
pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa; Nền văn
hóa tiên tiến định hướng xã hội chủ nghĩa;
Xã hội dân chủ định hướng xã hội chủ nghĩa. 

Đọc hơn 400 trang
sách chúng ta dễ dàng nhận thấy, các
tác giả đã khái quát cả lý luận
và thực tiễn quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở một số nước trên thế giới
và Việt Nam với cách tiếp cận mới, đó là
theo phương pháp liên ngành, trong đó đề
cao các phương pháp tiếp cận chuyên biệt như:
triết học, kinh tế – chính trị học, chính trị học, sử
học. Đồng thời, về mặt lý luận, cuốn sách đã
làm rõ một số khái niệm, phạm trù với
nội dung mới. Chỉ ra điều kiện tiên quyết để tiến lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của
các nước lạc hậu như Việt Nam hiện nay là phải kế thừa
thành tựu của chủ nghĩa tư bản hiện đại và giữ vững
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuốn
sách sẽ góp phần làm cơ sở lý luận cho
Đảng, Nhà nước khi hoạch định chủ trương, chính
sách phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đồng thời, cuốn
sách sẽ làm hài lòng những ai đang quan
tâm tới xu thế vận động của các nước trên thế
giới và quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu
khách quan. Trên cơ sở đó có niềm tin
vào chủ nghĩa xã hội cũng như hình thành
mục tiêu, nhiệm vụ của mình trong tương lai./. 

TS.
Lê Thị Thanh Hà

Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Nguồn:
Tạp chí Cộng sản