Phân tích các quy định của pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh – Hỗ trợ pháp lý cho Doanh Nghiệp – Trang thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật
Hiện nay, ở Việt Nam tồn tại nhiều loại hình đầu tư, trong đó, hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư linh hoạt và hiệu quả, được pháp luật đầu tư của hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi nhận (gọi chung là hợp doanh)
Trong kinh doanh, các doanh nghiệp thường hay hợp tác để cùng kinh doanh. Vậy quy định về hợp đồng hợp tác kinh doanh được pháp luật quy định như thế nào? Trong bài viết dưới đây tác giả sẽ đi phân tích một số nội dung liên quan đến quy định về hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hiện nay, ở Việt Nam tồn tại nhiều loại hình đầu tư, trong đó, hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư linh hoạt và hiệu quả, được pháp luật đầu tư của hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi nhận (gọi chung là hợp doanh). Hợp đồng hợp tác kinh doanh là loại hợp đồng phổ biến đối với doanh nghiệp, bởi hợp đồng này là một dạng huy động vốn. Khi ký kết hợp đồng, các bên cần lưu ý về chủ thể ký kết, nội dung ký kết, phạm vi hợp đồng, xác định được các rủi ro khi thực hiện,…
1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng hợp tác kinh doanh
1.1. Khái niệm
Theo quy định tại khoản 14 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2020 quy định:
“14. Hợp đồng hợp tác kinh doanh (sau đây gọi là hợp đồng BCC) là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh, phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm theo quy định của pháp luật mà không thành lập tổ chức kinh tế.”
Về bản chất, trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên vẫn giữ nguyên tư cách pháp lý của chính mình, nhân danh mình để thực hiện quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng. Với cơ chế đám phán để chia sẻ nghĩa vụ trong hoạt động đầu tư, đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh có ưu điểm là tính linh hoạt do không có sự ràng buộc về tổ chức bằng một pháp nhân chung của các tổ chức, cá nhân có quan hệ đầu tư với nhau. Đặc trưng cơ bản của hợp đồng hợp tác kinh doanh là tính chất, chủ thể và nội dung quan hệ đầu tư.
Tại Điều 504 của Bộ luật dân sự 2015 quy định về hợp đồng hợp tác như sau:
“1. Hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm.
2. Hợp đồng hợp tác phải được lập thành văn bản.”
Như vậy có thể hiểu hợp đồng hợp tác là sự thoả thuận giữa các bên về việc góp vốn để thực hiện một số công việc nhằm cùng hưởng lợi nhuận và sẻ chia rủi ro. Việc giao kết hợp đồng hợp tác giữa các chủ thể sẽ tạo thành một tổ chức gọi là tổ hợp tác. Bộ luật dân sự 2015 cũng quy định thêm về những vấn đề xung quanh hợp đồng hợp tác như sau:
Về tài sản chung của các thành viên hợp tác như sau: Tài sản do các thành viên đóng góp, cùng tạo lập và tài sản khác theo quy định của pháp luật là tài sản chung theo phần của các thành viên hợp tác. Trường hợp có thỏa thuận về góp tiền mà thành viên hợp tác chậm thực hiện thì phải có trách nhiệm trả lãi đối với phần tiền chậm trả theo và phải bồi thường thiệt hại; Việc định đoạt tài sản là quyền sử dụng đất, nhà, xưởng sản xuất, tư liệu sản xuất khác phải có thỏa thuận bằng văn bản của tất cả các thành viên; việc định đoạt tài sản khác do đại diện của các thành viên quyết định, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; Không được phân chia tài sản chung trước khi chấm dứt hợp đồng hợp tác, trừ trường hợp tất cả các thành viên hợp tác có thỏa thuận. Việc phân chia tài sản chung quy định tại khoản này không làm thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ được xác lập, thực hiện trước thời điểm tài sản được phân chia.
Về quyền và nghĩa vụ thành viên hợp tác như sau: Được hưởng hoa lợi, lợi tức thu được từ hoạt động hợp tác; Tham gia quyết định các vấn đề liên quan đến thực hiện hợp đồng hợp tác, giám sát hoạt động hợp tác; Bồi thường thiệt hại cho các thành viên hợp tác khác do lỗi của mình gây ra; Thực hiện quyền, nghĩa vụ khác theo hợp đồng.
Về xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của tổ hợp tác:Trường hợp các thành viên hợp tác cử người đại diện thì người này là người đại diện trong xác lập, thực hiện giao dịch dân sự; Trường hợp các thành viên hợp tác không cử ra người đại diện thì các thành viên hợp tác phải cùng tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; Giao dịch dân sự do các chủ thể trên xác lập, thực hiện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của tất cả thành viên hợp tác. Qua điều này có thể thấy tổ hợp tác cũng giống như các toanh nghiệp cần có người đại diện hợp pháp để xác lập , thực hiện các giao dịch dân sự. Tuy nhiên tại các doanh nghiệp thì bắt buộc phải có người đại diên hợp pháp còn ở tổ hợp tác có thể có hoặc không. Nếu không có người đại diên cho tổ hợp tác thì các thành viên hợp tác phải cùng tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự (trừ trường hợp đã có thỏa thuận khác).
Về trách nhiệm của thành viên hợp tác: Các thành viên hợp tác chịu trách nhiệm dân sự chung bằng tài sản chung; nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung thì thành viên hợp tác phải chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng theo phần tương ứng với phần đóng góp của mình, trừ trường hợp hợp đồng hợp tác hoặc luật có quy định khác.
1.2. Đặc điểm của hợp đồng hợp tác kinh doanh
Từ định nghĩa trên có thể thấy được hợp đồng hợp tác kinh doanh có một số đặc điểm sau:
Hợp đồng BCC mang đầy đủ các đặc điểm của hợp đồng nói chung. Nó là sự thỏa thuận giữa các bên ký kết, tức là sự thỏa hiệp ý chí của các nhà đầu tư. Các bên tham gia tự nguyện, tự do bày tỏ ý chí của mình. Các bên chủ thể của hợp đồng chủ yếu là các chủ thể kinh doanh và có năng lực chủ thể để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Người đại diện để ký kết hợp đồng phải là người đại diện hợp pháp của các bên chủ thể hợp đồng. Nội dung của hợp đồng BCC không được trái với quy định của pháp luật: Hình thức của hợp đồng BCC phù hợp với quy định của pháp luật. Mặt khác, mục đích của các bên trong hợp đồng nhằm hướng đến tìm kiếm lợi nhuận, bởi lẽ, các nhà đầu tư chủ yếu là các nhà kinh doanh.
Đầu tư theo hợp đồng BCC là một hình thức đầu tư trực tiếp, được thiết lập trên cơ sở hợp đồng. các nhà đầu tư không chỉ bỏ vốn mà còn trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư này luôn phải có sự hợp tác của hai hay nhiều nhà đầu tư với nhau. Sự hợp tác này là kết quả của quá trình thỏa thuận, rồi đi đến ký kết hợp đồng, mọi quyền và nghĩa vụ cơ bản được ghi nhận trên văn bản có giá trị pháp lý là hợp đồng BCC. Khác với hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế, đầu tư theo hợp đồng BCC được thực hiện trên cơ sở pháp lý là hợp đồng, các bên cùng hợp tác góp vốn, cùng tiến hành hoạt động kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận theo thỏa thuận trong hợp đồng đồng thời cùng chịu rủi ro xảy ra trong quá trình hợp tác.
Chủ thể hợp đồng BCC: Chủ thể của hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC là các nhà đầu tư bao gồm cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Số lượng chủ thể trong từng hợp đồng cũng không giới hạn. Hợp đồng có thể bao gồm đại diện của hai bên chủ thể hoặc nhiều bên, nó phụ thuộc vào số lượng đại diện muốn tham gia hợp tác kinh doanh, muốn trực tiếp được thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đây cũng là điểm để phân biệt hợp đồng BCC với hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng cung ứng dịch vụ, những hợp đồng này thường chỉ có sự tham gia của hai bên.
Nhà đầu tư (không phân biệt quốc tịch của họ) có thể trở thành chủ thể của hợp đồng hợp tác kinh doanh được quy định tại Khoản 18, Khoản 19 và Khoản 20 Điều 3 Luật đầu tư 2020 như sau:
“18. Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, gồm nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
19. Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
20. Nhà đầu tư trong nước là cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tổ chức kinh tế không có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông.”
Như vậy, mọi tổ chức, cá nhân là nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước ngoài, thuộc sở hữu Nhà nước hay sở hữu tư nhân đều có thể trở thành chủ thể của hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC. Đây là điểm khác biệt so với các quy định về hình thức đầu tư theo hợp đồng này theo pháp luật về đầu tư trước đây.
Mục đích của các bên tham gia hợp đồng BCC: là nhằm thực hiện việc hợp tác kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận thông qua hợp đồng mà không thành lập pháp nhân mới.
1.3. Nội dung hợp đồng hợp tác liên doanh
Khoản 1 Điều 28 Luật đầu tư 2020 quy định hợp đồng BCC gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
“Điều 28. Nội dung hợp đồng BCC
1. Hợp đồng BCC bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
a) Tên, địa chỉ, người đại diện có thẩm quyền của các bên tham gia hợp đồng; địa chỉ giao dịch hoặc địa điểm thực hiện dự án đầu tư;
b) Mục tiêu và phạm vi hoạt động đầu tư kinh doanh;
c) Đóng góp của các bên tham gia hợp đồng và phân chia kết quả đầu tư kinh doanh giữa các bên;
d) Tiến độ và thời hạn thực hiện hợp đồng;
đ) Quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng;
e) Sửa đổi, chuyển nhượng, chấm dứt hợp đồng;
g) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phương thức giải quyết tranh chấp.”
Bên cạnh đó, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 28 Luật đầu tư 2020 quy định:
“2. Trong quá trình thực hiện hợp đồng BCC, các bên tham gia hợp đồng được thỏa thuận sử dụng tài sản hình thành từ việc hợp tác kinh doanh để thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
3. Các bên tham gia hợp đồng BCC có quyền thỏa thuận những nội dung khác không trái với quy định của pháp luật.”
Như vậy, nội dung quan hệ đầu tư theo hợp đồng BCC là những thỏa thuận thể hiện tính “ hợp tác kinh doanh ”, bao gồm các thỏa thuận bỏ vốn để cùng kinh doanh, cùng chịu rủi ro, cùng phân chia kết quả kinh doanh. Đây chính là đặc thù của hợp đồng hợp tác kinh doanh trong sự so sánh với các hợp đồng khác trong thương mại (ở các hợp đồng này, thời điểm chuyển giao rủi ro được các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định là cơ sở xác định rõ lợi nhuận hay rủi ro thuộc về một trong các bên của hợp đồng).
Ngoài ra theo quy định tại Khoản 3, Điều 27 Luật Đầu tư 2020, các bên tham gia hợp đồng BCC thành lập Ban điều phối để thực hiện hợp đồng BCC. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban điều phối do các bên thảo thuận. Việc lập ra ban điều phối nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên tham gia hợp đồng, cũng như đại diện cho các bên giám sát quá trình thực hiện hợp đồng.
2. Ưu điểm và nhược điểm của hợp đồng hợp tác kinh doanh
2.1. Ưu điểm của hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Hiện nay, hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC đang ngày càng được các nhà đầu tư trong và ngoài nước ưu tiên lựa chọn khi tiến hành hoạt động đầu tư của mình do những ưu điểm nổi trội mà nó mang lại. Đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh Bất động sản, cung cấp dịch vụ viễn thông, khai thác, chế biến dầu khí và các khoáng sản quý hiếm…
Thứ nhất, trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhà đầu tư nhân danh tư cách pháp lý độc lập của mình để chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Do đó, nhà đầu tư sẽ rất linh hoạt, độc lập, ít lệ thuộc vào đối tác khi quyết định các vấn đề của dự án đầu tư. Nếu như đối với hình thức đầu tư thành lập pháp nhân mới, các nhà đầu tư căn cứ vào phần vốn góp để lựa chọn một hoặc một nhóm người đứng đầu lãnh đạo công ty. Như vậy, những nhà đầu tư có nguồn vốn ít sẽ có ít cơ hội được nắm quản lý, không chủ động trong việc cũng như với số vốn mà họ đã bỏ ra. Nhưng đối với hình thức đầu tư này, với cơ chế đàm phán để chia sẻ lợi ích cũng như nghĩa vụ trong hoạt động đầu tư, các nhà đầu tư có thể linh hoạt trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng. Do đó, hình thức đầu tư này góp phần đáp ứng tốt hơn yêu cầu và sự lựa chọn của nhiều nhà đầu tư khác nhau.
Thứ hai, hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC có thể giúp các nhà đầu tư tiết kiệm rất nhiều thời gian, công sức, tài chính trong việc thành lập pháp nhân mới cũng như chi phí vận hành doanh nghiệp khi nó được thành lập, khi dự án đầu tư kết thúc, các nhà đầu tư cũng không phải tiến hành thủ tục giải thể doanh nghiệp. Hình thức này luôn là ưu tiên số một cho các dự án đầu tư các khu chung cư ở các thành phố lớn vì khi dự án kết thúc, các bên phân chia lợi nhuận thì không cần phải tính đến chuyện làm thủ tục giải thể doanh nghiệp nếu như các nhà đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư khác. Ngoài ra, ngay khi các chung cư hoàn thành, các bên có thể ngay lập tức bán phần của mình như thỏa thuận phân chia mà không phụ thuộc vào đối tác còn lại.
Thứ ba, với hình thức đầu tư này, các bên có thể hỗ trợ nhau những thiết sót, yếu điểm của nhau trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Ví dụ như đối với những thị trường đầu tư còn mới mẻ, nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng tiếp cận thông qua những đối tác trong nước đã am hiểm thị trường. Còn các nhà đầu tư nước ngoài thì có thể được các đối tác nước ngoài hỗ trợ về vốn, nhân lực, công nghệ hiện đại. Như vậy, đối với các nhà đầu tư có thể nói là đôi bên cùng có lợi.
Thứ tư, việc tiến hành đầu tư theo hợp đồng BCC còn giúp các nhà đầu tư khi ký kết được lựa chọn phương án góp vốn, phân chia kết quả kinh doanh sao cho phù hợp với mức độ đóng góp của các bên. Thực tế hiện nay cho thấy, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam không trường vốn nên khi tham gia liên doanh thường góp vốn bằng quyền sử dụng đất, nhưng không phải lúc nào cũng có thể góp vốn bằng đất đai. Do đó, phương thức đầu tư theo hợp đồng BCC là khá phù hợp so với tình hình thực tế ở nước ta, doanh nghiệp Việt Nam chúng ta có lợi thế hơn trong hiểu biết về văn hóa tiêu dùng trong nước, về lực lượng lao động,… còn các doanh nghiệp nước ngoài thường có lợi thế về vốn, công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến. Những điều này khi kết hợp với nhau sẽ mang lại thuận lợi cho cả hai bên.
2.2. Nhược điểm của hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Bên cạnh những ưu điểm nổi trội của mình, hợp đồng BCC cũng tồn tại những hạn chế mà khi lựa chọn đầu tư theo hình thức này, các nhà đầu tư không thể không tính đến để đảm bảo cho hoạt động đầu tư của mình thu được lợi nhuận cao nhất và ít rắc rối nhất.
Thứ nhất, đầu tư theo hợp đồng BCC sẽ khó thu hút đầu tư đối với những lĩnh vực còn khó khăn và cần phát triển lâu dài, chỉ thực được đối với một số lĩnh vực dễ sinh lợi và sinh lợi nhanh. Đầu tư theo hợp đồng BCC thường được áp dụng để thực hiện một dự án cụ thể, nên việc quản lý, kinh doanh đối với các dự án lâu dài sẽ là không phù hợp khi lựa chọn hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC.
Thứ hai, việc không thành lập pháp nhân mới như phân tích ở trên là một ưu điểm nổi bật nhưng nó cũng chính là mặt hạn chế của hình thức đầu tư này. Chính vì không thành lập doanh nghiệp mới, do đó dự án đầu tư sẽ gặp kho khăn khi thực hiện các hợp đồng phục vụ cho việc đầu tư theo hợp đồng BCC. Cũng chính vì không có một doanh nghiệp mới ra đời giữa các nhà đầu tư, mà sẽ không có con dấu riêng, và đương nhiên, các nhà đầu tư sẽ phải thỏa thuận việc chọn một con dấu của các nhà đầu tư để phục vụ cho các hoạt động của dự án đầu tư. Việc không thành lập pháp nhân mới trong nhiều trường hợp nếu các nhà đầu tư không nghiên cứu kỹ, lựa chọn sai thì nó lại trở thành một hạn chế rất lớn, gây ra nhiều rủi ro mà các nhà đầu tư không lường trước được. Thêm vào đó, nếu do bất đồng mà một bên không cho sử dụng con dấu như đã thỏa thuận thì điều gì sẽ xảy ra? Đương nhiên, dự án sẽ phải dừng lại. Ngoài ra thành lập một pháp nhân mới thì quyền quản lý pháp nhân mới đó sẽ được phân chia theo tỷ lệ số vốn góp do các nhà đầu tư bỏ ra. Nhưng vì không có doanh nghiệp mới ra đời, do đó, quyền quản lý dự án đầu tư có thể sẽ được chia đều cho các nhà đầu tư, như vậy sẽ có lợi cho các nhà đầu tư bỏ ra ít vốn và không công bằng với các nhà đầu tư bỏ ra nhiều vốn hơn.
Thứ ba, đôi khi quan hệ hợp tác với đối tác nước sở tại còn thiếu tính chắc chắn làm các nhà đầu tư nước ngoài e ngại. Điều này xuất phát từ văn hóa kinh doanh và nhận thức của nhiều doanh nghiệp trong nước còn yếu kém. Vẫn có nhiều trường hợp hợp tác làm ăn nghiêm túc thì ít mà nhằm mục đích lừa đảo, trục lợi hay trốn thuế thì nhiều, khiến các nhà đầu tư nước ngoài còn nhiều băn khoăn khi bắt tay hợp tác.
Có thể thấy rằng với những phân tích đặc điểm ở trên cùng với những ưu nhược điểm của loại hợp đồng hợp tác đầu tư BBC các nhà đầu tư cần cân nhắc lựa chọn để đầu tư cho phù hợp với khả năng của mình để đạt hiệu quả.
Lê Tâm