Cải lương – Wikipedia tiếng Việt

Tự Đức dâng roi – màn trình diễn cải lương trên Trích đoạn cải lương – màn trình diễn cải lương trên chợ nổi tại Liên hoan Ẩm thực Món ngon những nước lần V – 2010 tại Thành phố Hồ Chí Minh

Cải lương là một loại hình kịch hát có nguồn gốc từ miền Nam Việt Nam, hình thành trên cơ sở dòng nhạc Đờn ca tài tử và dân ca miền đồng bằng sông Cửu Long, nhạc xưa cổ

Giải thích chữ ” cải lương ” ( 改良 ) theo nghĩa Hán Việt, giáo sư Trần Văn Khê cho rằng : ” Cải lương là sửa đổi cho trở nên tốt hơn “, biểu lộ qua sân khấu trình diễn, đề tài ngữ cảnh, nghệ thuật và thẩm mỹ màn biểu diễn, dàn nhạc và chuyên nghiệp. [ 1 ]. Ở đây là đã cải lương ( cải cách, thay đổi ) nghệ thuật và thẩm mỹ hát bội. Từ 1 động từ theo nghĩa thường thì đã trở thành 1 danh từ riêng. Sau khi cải lương thì thẩm mỹ và nghệ thuật Cải Lương đã khác hẳn với nghệ thuật và thẩm mỹ hát bội cả về nội dung và hình thức [ 2 ] .

Về thời gian ra đời, theo Vương Hồng Sển: tuy “có người cho rằng cải lương đã manh nha từ năm 1916, hoặc là 1918”, nhưng theo ông thì kể từ ngày 16 tháng 11 năm 1918, khi tuồng Gia Long tẩu quốc được công diễn tại Nhà hát Tây Sài Gòn, cách hát mới lạ này mới “bành trướng không thôi, mở đầu cho nghề mới, lấy đờn ca và ca ra bộ ra chỉnh đốn, thêm thắt mãi, vừa canh tân, vừa cải cách…nên cải lương hình thành lúc nào cũng không ai biết rõ…”[3]

Đa số những nhà nghiên cứu lúc bấy giờ đều thống nhất về việc lý giải 2 từ cải lương theo nghĩa : Cải là cải cách, lương là lương truyền. Có nghĩa là làm mới thể loại âm nhạc dân tộc bản địa để qua đây lương truyền tuồng tích, những yếu tố muốn gửi gắm đến người theo dõi, nhân dân và nhiều thế hệ thời điểm ngày hôm nay, tương lai .

Từ Đờn ca tài tử[sửa|sửa mã nguồn]

Đã đến lúc, theo Vương Hồng Sển, người ta nghe hát bội hoài, hát bội mãi, cũng chán tai thét hóa nhàm[4] thì các ban tài tử đờn ca xuất hiện.

Buổi đầu, khoảng chừng cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, những nhóm đờn ca được xây dựng cốt để tiêu khiển, để ship hàng trong những buổi lễ tại tư gia, như đám tang, lễ giỗ, tân hôn … nhưng chưa hề trình diễn trên sân khấu hay trước công chúng .Và nếu trước kia ” cầm ” ( trong ” cầm, kỳ thi, họa ” ) là của những tầng lớp thượng lưu thì đến quy trình tiến độ này nó không còn bị gò bó trong khoanh vùng phạm vi đó nữa, mà đã phổ cập rộng ra ngoài. Chính cho nên vì thế nhạc tài tử ở những tỉnh phía Nam, về nội dung lẫn hình thức, dần dà thoát ly khỏi nhạc truyền thống cuội nguồn có gốc từ Trung, Bắc .

Nhắc lại giai đoạn này, trong Hồi ký 50 năm mê hát, có đoạn:

Căn cứ theo sách vở thâu thập và những lời của người lớn tuổi nói lại, và nếu tôi (Vương Hồng Sển) không lầm thì buổi sơ khởi của cải lương, là do sự ngẫu nhiên, sự tình cờ, là do lòng ái quốc mà nên.

Tác giả lý giải :

Người miền Nam có cái hay là khi biết dùng bạo lực cải hại thân vào tù, thì họ không dùng bạo lực. Họ cố đè nén lòng thương nước, chôn giấu trong một bề ngoài lêu lổng, chơi bời…Họ (những tài tử) thường tụ họp vừa tập ca cho vui, vừa trau giồi nghệ thuật…rồi mỗi khi có đám tang, vào lúc canh khuya…họ cũng hòa đờn, tập dượt ca cho đúng nhịp, để đánh cơn buồn ngủ. Sau thành thói tục, mỗi dịp “quan – hôn – tang – tế” (chủ nhà) đều có mời họ cho rôm đám.[4]

Khi ấy, Đờn ca tài tử gồm:

  • Nhóm tài tử miền Tây Nam Bộ, như: Bầu An, Lê Tài Khị (Nhạc Khị), Nguyễn Quan Đại (Ba Đợi), Trần Quang Diệm, Tống Hữu Định, Kinh Lịch Qườn, Phạm Đăng Đàn…
  • Nhóm tài tử Sài Gòn, như: Nguyễn Liên Phong, Phan Hiển Đạo, Nguyễn Tùng Bá…

Đến lối Ca ra bộ[sửa|sửa mã nguồn]

Ban đờn ca tài tử Nguyễn Tống Triều dự hội chợ những nước thuộc địa ở Marseille, Pháp năm 1906 .Qua lối năm 1910, ông Trần Văn Khải kể :

Ở Mỹ Tho có ban tài tử của Nguyễn Tống Triều, người Cái Thia, tục gọi Tư Triều (đờn kìm), Mười Lý (thổi tiêu), Chín Quán (đờn độc huyền), Bảy Vô (đờn cò), cô Hai Nhiễu (đờn tranh), cô Ba Đắc (ca sĩ). Phần nhiều tài tử nầy được chọn đi trình bày cổ nhạc Việt Nam tại cuộc triển lãm ở Pháp. Khi về, họ cho biết rằng Ban tổ chức có cho họ được đờn ca trên sân khấu và được công chúng đến xem đông đảo…[5]

Nghe được cách cho ” đờn ca trên sân khấu “, Thầy Hộ, chủ rạp chiếu bóng Casino, ở sau chợ Mỹ Tho, bèn mời ban tài tử Tư Triều, đến trình diễn mỗi tối thứ tư và thứ bảy trên sân khấu, trước khi chiếu bóng, được công chúng hoan nghinh nhiệt liệt .

Trong thời kỳ này, Mỹ Tho là đầu mối xe lửa đi Sài Gòn. Khách ở các tỉnh miền Tây muốn đi Sài Gòn đều phải ghé trạm Mỹ Tho. Trong số khách, có ông Phó Mười Hai ở Vĩnh Long là người hâm mộ cầm ca. Khi ông nghe cô Ba Đắc ca bài Tứ Đại, như bài ” Bùi Kiệm – Nguyệt Nga”, với một giọng gần như có đối đáp, nhưng cô không ra bộ. Khi về lại Vĩnh Long, ông liền cho người ca đứng trên bộ ván ngựa và “ca ra bộ”[6]. Ca ra bộ phát sinh từ đó, lối năm 1915 – 1916.

Cũng theo Vương Hồng Sển :

các điệu ca ra bộ và cải lương sau này đều chịu ảnh hưởng của các buổi hát nhân những kỳ bãi trường do các trường trung học Taberd, Mỹ Tho, trường tỉnh Sóc Trăng…Cho nên chúng ta không nên quên ơn các nhà tiền bối, phần đông là các giáo sư trường Pháp, đã có sáng kiến dìu dắt và dạy cho ta biết một nghệ thuật hát ca khác với điệu hát bội thời ấy…[7]

Nhà văn Sơn Nam còn cho biết :

năm 1917, Lương Khắc Ninh, sành về hát bội, đã diễn thuyết tại hội khuyến học Sài Gòn: Người An Nam ta thuở nay vẫn cho nghề hát là nghề hạ tiện, nên người có học thức một ít thì không làm…(nay) muốn cải lương phải làm sao?…Chuyện nói đây không khó. Có học trò trường Taberd đến lúc phát thưởng, nó ra hát theo Lang Sa (Pháp), bộ tịch như Lang Sa. Rất đổi là hát theo ngoại quốc, trẻ em còn làm được, hà huống người An Nam mà hát An Nam không được sao?…Rồi đoàn ca nhạc kịch bên Pháp mỗi năm sáu tháng đã đến Sài Gòn trình diễn, có màn có cảnh phân minh, mỗi tuồng dứt trọn một đêm. Công chúng người Việt hâm mộ, thấy hợp lý, thêm tranh cảnh gọi Sơn thủy, đẹp mắt.[8]

Và rồi, ngay năm này (1917), ông André Thận (Lê Văn Thận) ở Sa Đéc lập gánh hát xiếc, có thêm ít màn ca ra bộ.

Hình thành Cải lương[sửa|sửa mã nguồn]

Qua năm 1918, cũng theo Vương Hồng Sển, năm 1918, bỗng Tây thắng trận ngang (Chiến tranh thế giới thứ nhất), mừng quá, toàn quyền Albert Sarraut nới tay cho phép phe trí thức bày ra một cuộc hát lấy tiền dâng “mẫu quốc” và cho phép lập hội gánh hát để dân bản xứ lãng quên việc nước, thừa dịp đó dân trong Nam bèn trau giồi nghề đờn ca và đưa tài tử salon lên sân khấu…[9]. Nhân cơ hội ấy, ông Năm Tú (Châu Văn Tú) ở Mỹ Tho chuộc gánh của ông André Thận rồi sắm thêm màn cảnh, y phục và nhờ ông Trương Duy Toản soạn tuồng, đánh dấu sự ra đời của loại hình nghệ thuật cải lương.

Đến năm 1920, cái tên ” cải lương ” Open lần tiên phong trên bản hiệu gánh hát Tân Thịnh ( 1920 ) với câu liên đối :

Cải cách hát ca theo tiến bộ
Lương truyền tuồng tích sánh văn minh.

Mặc dù Vương Hồng Sến đã nói cải lương hình thành lúc nào cũng không ai biết rõ, nhưng theo sự hiểu của ông thì:

  • Năm 1915 trở về trước, tại miền Nam, tài tử còn ca kiểu “độc thoại”.
  • Năm 1916, có ca kiểu “đối thoại” (ca ra bộ)
  • Đêm 16 tháng 11 năm 1918, tại Rạp Hát Tây Sài Gòn, có diễn tuồng PhápViệt nhứt gia (tức Gia Long tẩu quốc) đánh dấu thời kỳ phôi thai của cải lương.

Sau đêm này, André Thận trước và Năm Tú sau, đã đưa cải lương lên sân khấu thiệt thọ. Năm 1922, tuồng Trang Tử thử vợ và tuồng Kim Vân Kiều diễn tại rạp Mỹ Tho rồi lên diễn tại rạp Chợ Lớn và rạp Modern Sài Gòn… lúc này hát cải lương mới thành hình thật sự…[10]

Xử án Bàng Quý Phi, Gánh hát Phước Cương khoảng 1928, Gánh hát Phước Cương khoảng chừng 1928

Và diễn biến tiếp theo của cải lương được Từ điển bách khoa Việt Nam tóm gọn như sau:

Những năm 1920 – 1930 là thời kì phát triển rực rỡ, nhiều gánh hát ra đời, nổi tiếng nhất là hai gánh Phước CươngTrần Đắc có dàn kịch gồm ba loại: các tuồng tích của Trung Quốc, loại xã hội và loại phóng tác (như “Tơ vương đến thác”, “Giá trị và danh dự”).
Trong thời kỳ 1930 – 1934, nghệ thuật cải lương lan truyền ra ngoài Bắc và nhiều nghệ sĩ xuất sắc xuất hiện như Năm Phỉ, Phùng Há, Bảy Nhiêu, Năm Châu… Thời kì kinh tế khủng hoảng, nhiều gánh hát tan rã. Dựa vào tâm lý của dân chúng ngả về tôn giáo, các gánh hát đua nhau diễn các tích về Phật, tiên, đi đầu là gánh hát Tân Thịnh.
Từ 1934, xuất hiện phong trào “kiếm hiệp”, đi đầu là gánh Nhạn Trắng và tác giả Mộng Vân người Bạc Liêu. Những vở nổi tiếng: “Chiếc lá vàng”, “Bích Liên vương nữ”, “Bảo Nguyệt Nương”. Từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay… Nhiều vở diễn mới xuất hiện, nội dung phong phú và đa dạng.[11]

Phát triển và Hưng thịnh[sửa|sửa mã nguồn]

Tại miền Nam Việt Nam, thập niên 1960 là thời kỳ hưng thịnh nhất của cải lương miền Nam, ép chế cả tân nhạc. Các sân khấu cải lương được đông người theo dõi đến xem hàng ngày, nên ngày nào cũng có diễn xuất, nhờ đó, những soạn giả và nghệ sĩ có đời sống khá sung túc, và 1 số ít ca sĩ tân nhạc phải tìm cách chuyển nghề sang hát cải lương để tìm kiếm thành công xuất sắc như Hùng Cường [ 12 ]. Riêng tại vùng Hồ Chí Minh, Chợ Lớn, Gia Định đã có trên 39 rạp hát cải lương [ 13 ] và 20 nơi luyện cổ nhạc ( gọi là ” lò ” ), trong đó có những ” lò ” nổi tiếng như của Út Trong ( từng là trưởng dàn cổ nhạc của gánh Thanh Minh suốt 13 năm, và là người đã đào tạo và giảng dạy Thanh Nga từ lúc còn thơ ấu ), Văn Vĩ, Duy Trì, Huỳnh Hà, Tư Tân, Yên Sơn, Ba Giáo, … [ 12 ] Trong những phần thưởng của ngành Cải lương thời đó, nổi tiếng và uy tín có Giải Thanh Tâm, do ông ký giả Thanh Tâm ( tên thật là Trần Tấn Quốc ) xây dựng, hoạt động giải trí từ năm 1958 đến năm 1968, mà người nhận giải tiên phong là nữ nghệ sĩ Thanh Nga [ 14 ]. Những soạn giả tuồng nổi tiếng trong thời này có Năm Châu, Hà Triều, Hoa Phượng, Bảy Cao, Thế Châu, Thiếu Linh, Yên Lang, Nguyên Thảo, Mộc Linh, Kiên Giang, Thu An, Viễn Châu ( phát minh sáng tạo hình thức tân cổ giao duyên, tức là hát cải lương chung với tân nhạc ), … [ 15 ] [ 16 ] Những gánh hát cải lương nổi tiếng thời này có đoàn Thanh Minh – Thanh Nga, Thống Nhứt, Tiếng Chuông Vàng, … với những nghệ sĩ như Út Trà Ôn, Minh Tơ, Hữu Phước, Văn Chung, Thành Được, Hùng Cường, Hùng Minh, Nam Hùng, Tấn Tài, Dũng Thanh Lâm, Văn Hường, Minh Cảnh, Minh Phụng, Minh Vương, Thanh Sang, Phương Quang, Hề Sa, Diệp Lang, Phùng Há, Bảy Nam, Út Bạch Lan, Ánh Hoa, Ngọc Giàu, Thanh Nga, Diệu Hiền, Minh Sang, Lê Thiện, Lệ Thủy, Mỹ Châu, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Thanh Tòng, Thanh Điền, Bảo Quốc, Bạch Mai, Thanh Nguyệt, Thanh Kim Huệ, Bảo Chung, Thanh Thanh Hoa, Chí Tâm, Trọng Hữu, Giang Châu … [ 17 ]Khi Chiến tranh Việt Nam chấm hết, cải lương miền Nam hoạt động giải trí mạnh 10 năm nữa, đến năm 1985, mới từ từ sa sút [ 13 ], vì nhiều nguyên do, trong đó có thiếu ngữ cảnh hay, thiếu rạp diễn mới và thế hệ lão thành tàn lụi .

Khởi sự, các vở cải lương viết về các tích xưa, như Trảm Trịnh Ân, Vợ Ngũ Vân Thiệu bị tên, Cao Lũng vít thiết xa, Ngưu Cao tảo mộ, Thoại Khanh – Châu Tuấn… hay còn giữ mang hơi hướng theo kiểu hát bội, do các soạn giả lớp cải lương đầu tiên vốn là soạn giả của sân khấu hát bội. Sau này, các vở về đề tài xã hội mới (gọi là tuồng xã hội), như Tội của ai, Khúc oan vô lượng, Tứ đổ tường,… thì hoàn toàn theo cách bố cục của kịch nói, nghĩa là vở kịch được phân thành hồi, màn, lớp, có mở màn, hạ màn, theo sự tiến triển của hành động kịch. Càng về sau thì bố cục của các vở cải lương, kể cả các vở viết về đề tài xưa cũng theo kiểu bố cục của kịch nói.

Đề tài và diễn biến[sửa|sửa mã nguồn]

Buổi đầu, kịch bản cải lương lấy cốt truyện của các truyện thơ Nôm như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên,… hoặc các vở tuồng hát bội, hoặc phỏng theo truyện phim và kịch bản Pháp, như Bằng hữu binh nhung (frères d’arme), Sắc giết người (Atlantide), Giá trị và danh dự (Le Cid), Tơ vương đến thác (La dame au camélias)…

Vào thập niên 1930, đã xuất hiện những vỡ mới viết về đề tài xã hội Việt Nam, như: Đời cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt,…

Sau đó, lại có thêm các kịch bản dựa vào các truyện cổ Ấn Độ, Ai Cập, La Mã, Nhật Bản, Mông Cổ… (Nàng Xê-đa, Hoa Sơn thần nữ,…). Thế là cải lương có đủ loại tuồng ta, tuồng Tàu, tuồng Tây… sau có thêm dạng tuồng kiếm hiệp, tuồng Hồ Quảng,… chứng tỏ khả năng phong phú, biết đáp ứng sở thích của nhiều tầng lớp công chúng.

Sự dung nạp không thành kiến của cải lương hoàn toàn có thể coi là sự lai tạp, nhưng đây cũng là góc nhìn đặc thù có đặc thù chung so với văn hóa truyền thống của vùng đất Nam Bộ .
Các mô hình sân khấu như hát bội, hồ Quảng, cải lương được gọi là ca kịch. Là ca kịch chứ không phải là nhạc kịch, vì soạn giả không sáng tác nhạc mà chỉ soạn lời ca theo những bản nhạc có sẵn, cốt sao cho tương thích với những diễn biến cùng sắc thái tình cảm của câu truyện .

Sân khấu cải lương sử dụng cái vốn dân ca nhạc cổ rất phong phú của Nam Bộ. Trên bước đường phát triển nó được bổ sung thêm một số bài bản mới (như Dạ cổ hoài lang của Cao Văn Lầu mà sau này mang tên vọng cổ). Nó cũng gồm một số điệu ca vốn là nhạc Trung Hoa nhưng đã Việt Nam hóa.

Ngoài trừ bản vọng cổ, dưới đây là 1 số ít chuyên nghiệp được sử dụng khá thông dụng trong những tuồng cải lương :

  • Tam nam: Nam xuân, Nam ai, Nam đảo (Đảo ngũ cung)
  • Khốc hoàng thiên, Phụng hoàng, Nặng tình xưa, Ngũ điểm – Bài tạ, Sương chiều – Tú Anh, Xang xừ líu, Văn thiên tường (nhất là lớp dựng), Ngựa ô bắc, Ngựa ô nam, Đoản khúc Lam giang, Phi vân điệp khúc, Vọng kim lang, Kim tiền bản, Duyên kỳ ngộ, U líu u xáng, Trăng thu dạ khúc, Xàng xê, Tứ đại oán, Lưu thủy hành vân…
  • Các điệu lý: Lý giao duyên, Lý con sáo, Lý tòng quân, lý Cái Mơn,…

Ngoài ra, khi các bài hát tây bắt đầu xuất hiện trên sân khấu cải lương như: Pouet Pouet (trong Tiếng nói trái tim), Marinella (trong Phũ phàng), Tango mysterieux (trong Đóa hoa rừng)…thì lúc bấy giờ trong một đoàn cải lương xã hội có hai dàn nhạc: dàn nhạc cải lương thì ngồi ở trong, còn dàn nhạc jazz thì ngồi ở trước sân khấu…

1 đoàn cải lương không chỉ có những diễn viên diễn xuất trên sân khấu, mà luôn luôn phải có dàn nhạc đi kèm. Vì thế, khi trình diễn về âm nhạc trong nghệ thuật và thẩm mỹ cải lương, không hề không nói tới dàn nhạc cải lương. Dàn nhạc cải lương có một vai trò đặc biệt quan trọng trong tuồng diễn, đến nỗi, không có dàn nhạc thì không hề thành một tuồng diễn. Dàn nhạc trong cải lương không chỉ có trách nhiệm nâng đỡ, phụ họa cho giọng hát, mà còn tô điểm thêm cho từng giai điệu để làm điển hình nổi bật chiều sâu tâm ý của nhân vật, tạo thêm kịch tính cho ngữ cảnh, góp thêm phần cho sự thành công xuất sắc của tuồng diễn .Có một điều đặc biệt quan trọng cần quan tâm là ngay từ buổi đầu, lúc mới khai sinh, trong thẩm mỹ và nghệ thuật cải lương đã có sự sống sót song song của hai dàn nhạc : dàn nhạc cổ và dàn nhạc tân. [ 18 ] Vai trò và sự tham gia của hai dàn nhạc trong vở diễn tuy có khác nhau nhưng không hề có sự ép chế lẫn nhau, mà luôn bổ túc cho nhau. Đó là sự phối hợp độc lạ giữa nét truyền thống cuội nguồn và nét văn minh trong nền âm nhạc cải lương .

Dàn nhạc cổ[sửa|sửa mã nguồn]

Dàn nhạc cổ luôn giữ vai trò chủ chốt và được cho là linh hồn của tuồng cải lương. Dàn nhạc cổ cũng mang đậm nét truyền thống cuội nguồn và góp thêm phần giữ gìn truyền thống dân tộc bản địa trong nghệ thuật và thẩm mỹ âm nhạc cải lương. Về mặt cấu trúc, dàn nhạc cổ thường sử dụng những nhạc cụ như : đàn tranh, đàn bầu, đàn kìm, đàn cò, đàn tỳ bà, guitar phím lõm, đàn sến, tuy nhiên lang và sáo trúc …

Dàn nhạc tân[sửa|sửa mã nguồn]

Dàn nhạc tân tuy chỉ đóng vai phụ, nhưng cũng rất tích cực, đồng thời cũng rất phong phú về nhạc cụ. Như phần trên đã trình diễn, ngay từ lúc cải lương được hình thành, thì đã có sự góp mặt của dàn nhạc tân, quy trình tăng trưởng của dàn nhạc tân được chia thành ba tiến trình : tiến trình đầu từ năm 1920 – 1940 ; từ 1940 – 1960 và từ 1960 – 1975. Ở tiến trình đầu, dàn nhạc tân không tham gia vở diễn mà chỉ đóng vai trò như một tiết mục quảng cáo, tức là trình diễn trước lúc tuồng cải lương được mở màn ; hoặc chỉ được sử dụng để ” lấp vào chỗ trống ” khi chuyển màn, chuyển cảnh … Trong tiến trình này, cấu trúc của dàn nhạc tân chỉ có bộ hơi ( những loại kèn đồng ) kèm với một dàn trống jazz .Ở quá trình thứ hai, khi nghệ thuật và thẩm mỹ cải lương dung nạp thêm 1 số ít bài tân nhạc, thì dàn nhạc tân cũng mở màn được tham gia vở diễn. Nhưng sự tham gia này còn rất hạn chế, chỉ đệm cho diễn viên hát những đoạn tân nhạc. Đến lúc này thì dàn nhạc tân có thêm hai cây guitar solo và guitar bass .Ở tiến trình thứ ba thì dàn nhạc tân coi như có vai trò ngang hàng với dàn nhạc cổ trong vở diễn. Ngoài tính năng đệm cho tân nhạc, dàn nhạc tân còn phụ họa, điểm xuyến cho những vai diễn. Lúc này, dàn nhạc tân dung nạp thêm cây piano và cây organ .Ngày nay, dàn nhạc tân còn dung nạp thêm nhiều loại nhạc cụ văn minh khác, đặc biệt quan trọng là cây organ điện tử với những công dụng ngày càng phong phú. Cây Organ điện tử văn minh này đang ” thao túng trên sân khấu cải lương, quá lạm dụng, nhiều lúc cái hồn và chất âm nhạc truyền thống cuội nguồn của Cải Lương bị xô lệch “. [ 19 ]

Cách trình diễn[sửa|sửa mã nguồn]

Diễn viên cải lương diễn xuất như kịch nói, chỉ khác là diễn viên ca chứ không nói, cử chỉ điệu bộ tương thích theo lời ca, chứ không cường điệu như hát bội, Vương Hồng Sển cho rằng hát bội tượng trưng nhiều quá và la lối lớn tiếng quá, trái lại cải lương ca rỉ rả cho thêm mùi … [ 20 ] Sau này ( khoảng chừng những năm 60 ), cải lương có pha thêm những cảnh múa, đu bay, diễn võ … cốt chỉ để thêm sinh động …

Trang phục, toàn cảnh[sửa|sửa mã nguồn]

Trong những vở diễn về tuồng tích xưa hay lấy diễn biến ở quốc tế thì y phục của diễn viên và tranh cảnh trên sân khấu cũng được lựa chọn sao gợi được toàn cảnh nơi xảy ra câu truyện, nhưng cũng chỉ mới có tính ước lệ chứ chưa đúng với hiện thực. Trong những vở về đề tài xã hội, diễn viên ăn mặc như nhân vật ngoài đời .
Sơ khởi nên kể công ông Tống Hữu Định ( tức Phó Mười Hai ). Kế đó, người có công gầy dựng và đưa lên sân khấu là ông André Thận. Bên cạnh đó còn có vài người góp phần như : Kinh-lịch Quờn ( hay Hườn ), Phạm Đăng Đàng …Ngoài ra còn phải kể đến công của những bầu gánh, soạn giả, nhạc sĩ và những đào kép tài danh thuộc thế hệ đầu, như : Tư Sự ( gánh Đồng Bào Nam ), Hai Cu ( gánh Nam Đồng Ban ), Trần Ngọc Viện ( gánh Nữ Đồng Ban ), Trương Duy Toản, Ba Đại, Hai Trì, Nhạc khị, Năm Triều, Sáu Lầu ( Cao Văn Lầu ), Nguyễn Tri Khương, Trần Văn Chiều ( tự Bảy Triều ), Ba Đắc, Bảy Lung, Ba Niêm, Hai Nhiều, Hai Cúc, Năm Phỉ, Ngọc Xứng, Ngọc Sương, Phùng Há, Tư Sạng, Hai Giỏi, Năm Nở, Trần Hữu Trang, Tư Chơi, Năm Châu, Ba Vân, Bảy Nam, … Tất cả đã góp thêm phần hình thành và tăng trưởng mô hình thẩm mỹ và nghệ thuật cải lương .Cũng nên nói thêm, từ sau Hiệp định Geneve ( 1954 ), cải lương càng có thời cơ tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ, trở thành một mô hình thẩm mỹ và nghệ thuật, một bộ môn sân khấu có năng lực lôi cuốn phần đông khán thính giả. Và do ý tưởng sáng tạo của ông Trần Tấn Quốc, nhà báo kỳ cựu, Giải Thanh Tâm được xây dựng năm 1958 và liên tục mỗi năm kế sau đều có phát huy chương và khen thưởng cho những nam nữ nghệ sĩ trẻ có triển vọng nhất trong năm .Các nghệ sĩ cải lương nổi tiếng : Phùng Há, Út Trà Ôn, Minh Vương, Năm Châu, Mỹ Châu, Thoại Miêu, Ngọc Giàu, Út Bạch Lan, Bạch Tuyết, Thanh Sang, Phương Quang, Diệp Lang, Lệ Thủy, Phượng Liên, Hồng Nga, Kim Ngọc, Bảy Nam, Minh Phụng, Diệu Hiền, Ngọc Hương, Kim Anh, Dũng Thanh Lâm, Hùng Cường, Thanh Hương, Thanh Tú, Thanh Kim Huệ, Thanh Nga, Minh Cảnh, Thanh Điền, Thanh Tuấn, Thanh Tòng, Thanh Thanh Hoa, Tấn Tài, Hữu Phước, Năm Phỉ, Ba Vân, Tám Danh, Châu Thanh, Linh Tâm, Vũ Linh, Khánh Linh, Kim Tử Long, Chiêu Hùng, Chiêu Linh, Vũ Luân, Kim Tiểu Long, Thanh Hải, Thanh Thế, Bạch Mai, Thanh Hằng, Thanh Ngân, Thoại Mỹ, Thanh Thanh Tâm, Phương Hồng Thủy, Tài Linh, Phượng Mai, Lê Tứ, Quế Trân, Trọng Phúc, Võ Minh Lâm, Hoàng Nhất …Nghệ sĩ Cải Lương Bắc : NSND Ái Liên, Tiêu Lang, NSƯT Kim Xuân, NSND Mạnh Tưởng, Tuấn Sửu – Bích Được, Thanh Thanh Hiền, Lệ Thanh, Thùy Liên, Thu Hà, Trà My, Hoàng Tùng, Hồ Điệp, Triệu Trung Kiên, NSND Sĩ Tiến, …Những cặp đôi bạn trẻ nổi tiếng trên sân khấu : Thanh Sang – Thanh Nga ; Bạch Tuyết – Hùng Cường ; Lệ Thủy – Minh Phụng ; Minh Vương – Lệ Thủy ; Mỹ Châu – Minh Phụng ; Thanh Sang – Bạch Tuyết ; Tấn Tài – Bạch Tuyết ; Thanh Tuấn – Thanh Kim Huệ ; Châu Thanh – Phượng Hằng ; Châu Thanh – Cẩm Tiên ; Vũ Linh – Tài Linh, Vũ Linh – Thanh Thanh Tâm, Kim Tử Long – Ngọc Huyền, Mạnh Quỳnh – Phi Nhung ..Các soạn giả cải lương nổi tiếng : Viễn Châu, Loan Thảo, Hà Triều, Hoa Phượng, Quy Sắc, Yên Lang, Thạch Tuyền, Năm Châu, Trần Hà, Trần Hữu Trang, Yên Ba, Kiên Giang, Thế Châu, …Các danh cầm tài hoa : Văn Vĩ, Bảy Bá, Năm Cơ, Năm Vĩnh, Hai Thơm, Ngọc Sáu, Chín Trích, Hai Khuê, Thanh Kim, Hoàng Ân, Trần Xuân Ngã, Tư Huyện, Văn Giỏi, …

Ngày 28 tháng 9 năm 2020, Google Doodle đã vinh danh nghệ thuật cải lương.[21]

Một số vở cải lương[sửa|sửa mã nguồn]

Các đoàn cải lương chuyên nghiệp[sửa|sửa mã nguồn]

Nghệ thuật sân khấu Cải lương có 19 đơn vị chức năng phân bổ hầu hết ở những tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ gồm :

  • Nhà hát Cải lương Việt Nam
  • Nhà hát Cải lương Hà Nội;
  • Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang
  • Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Đồng Nai
  • Đoàn Cải lương Hải Phòng
  • Đoàn Cải lương Hương Tràm tỉnh Cà Mau
  • Đoàn Cải lương Tây Đô thuộc Nhà hát Tây Đô tỉnh Cần Thơ
  • Đoàn nghệ thuật Cải lương Long An
  • Đoàn văn công Đồng Tháp
  • Đoàn nghệ thuật Cải lương Bến Tre
  • Đoàn Cải lương Ánh Hồng tỉnh Trà Vinh
  • Đoàn Cải lương nhân dân Kiên Giang
  • Đoàn Cải lương Cao Văn Lầu tỉnh Bạc Liêu
  • Đoàn Cải lương An Giang
  • Đoàn nghệ thuật Cải lương Tây Ninh.
04 Đoàn Cải lương phía Bắc đã sáp nhập vào Nhà hát nghệ thuật tỉnh gồm
  • Đoàn Cải lương Quảng Ninh
  • Đoàn Cải lương Thái Bình
  • Đoàn Cải lương Nam Định
  • Đoàn Cải lương Thanh Hóa

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]