Nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự sụp đổ của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do?

Sự sụp đổ của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã dẫn tới nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với tình hình thế giới. Vậy nguyên nhân sâu xa của sự sụp đổ này là gì, hãy cùng Luật Minh Khuê tìm hiểu trong bài viết lần này nhé.

1. Bối cảnh sụp đổ của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu

Sau Thế chiến thứ hai, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ đã đẩy thế giới vào cuộc “chạy đua vũ trang” và “chiến tranh lạnh”. Đồng hành cùng với đó là chiến lược “diễn biến hòa bình”. Một chiến lược với những thủ đoạn, phương cách tinh vi nhằm thúc đẩy vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm cho nội bộ lục đục, mất đoàn kết, gây mơ hồ, hoài nghi về chế độ, về vai trò lãnh đạo của Đảng.

Chính sự chia rẽ giữa người dân và chính quyền các cấp là cơ hội để các thế lực thù địch và các lực lượng “ngầm” từng bước can thiệp sâu, gây ra mâu thuẫn trong nội bộ dẫn đến tha hóa, biến chất chế độ cộng sản; cổ động các phe phái đối lập nổi lên chống phá cách mạng, tiến tới thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước ở Đông Âu.

Trước hết đối với Hungary, lợi dụng sự non kém về bộ máy lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Nhà nước, các thế lực thù địch, các lực lượng phản động đã thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng và Nhà nước làm cho những giá trị Mỹ từng bước xâm nhập và luồng sâu vào nội bộ, từng bước làm tha hóa, biến chất chế độ cộng sản, gieo rắc sự hoài nghi, bi quan, mất niềm tin của đảng viên, nhân dân với chế độ xã hội chủ nghĩa. Việc này, khiến người dân, kể cả đảng viên quay lưng không ủng hộ Đảng Lao động Hungary (hay Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Hungary) mà hướng về phương Tây, kết thân với Mỹ, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Từ đây dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Hungary.

Cùng thời gian ấy, sự lây nhiễm của “diễn biến hòa bình” với quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã tràn vào trong nội bộ Ba Lan, làm cho không ít cán bộ, đảng viên của Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan suy thoái về tư tưởng, chính trị, dao động, mất niềm tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng, để rồi tự đốt thẻ đảng, kịch liệt công kích, phản kháng, phủ nhận tính hợp pháp của quân đội Liên Xô ở Ba Lan. Các phe đối lập, các đảng phái ngóc đầu dậy tranh giành quyền lực, lũng loạn trong Đảng, trong Quốc hội và Chính phủ. Kết quả Công đoàn Đoàn kết chiếm 99% số ghế ở Thượng viện đã đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan.

Tương tự như Hungary, Ba Lan, ở Tiệp Khắc, Bungari, Đông Đức cùng các nước Đông Âu khác cũng đã đánh mất vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với đất nước, dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.

Còn đối với Liên Xô – là thành trì hệ thống xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch đã tìm mọi cách nhằm “gieo hạt giống thức tỉnh và hủy diệt chế độ Xô Viết” thông qua sách lược “mưa dầm thấm lâu”. Với chiêu bài “ngoại giao thân thiện” các thế lực thù địch đã đẩy mạnh truyền bá tư tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền, thực hiện luồn sâu, leo cao, từng bước can thiệp ngày càng sâu vào đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao và quốc phòng, an ninh của Liên Xô. Thông qua đó thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước, làm cho nội bộ 15 nước cộng hòa và hệ thống chuyên chính vô sản đã được thiết lập khá vững chắc từ thời V.I.Lênin, từng bước biến đổi nhận thức, chuyển hóa về tư tưởng, gây mất niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào sứ mệnh lịch sử của Liên Xô và lý tưởng chủ nghĩa cộng sản.

Thêm vào đó, mâu thuẫn và xung đột giữa các dân tộc dẫn đến hiện tượng li khai của một số nước cộng hòa ra khỏi Liên bang Xô Viết (ba nước vùng Ban Tích, Gruzia, Mônđôva,… ), các đảng phái với nhiều xu hướng chính trị khác nhau trong xã hội ngóc đầu dậy chống chủ nghĩa xã hội, nhiều ủy viên dao động về tư tưởng, quay lưng với Đảng Cộng sản, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội và công an, làm cho Đảng Cộng sản không còn đủ sức để lãnh đạo chặt chẽ các phương tiện thông tin đại chúng, để cho báo, đài tùy tiện thông tin và phát biểu những quan điểm sai trái, tạo ra sự hỗn loạn về tư tưởng. Điều đó khiến cho quân đội Liên Xô mất phương hướng chính trị, không còn sức chiến đấu, đất nước ngày càng lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Và đến ngày 21/12/1991, sự thành lập liên minh Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) đã đánh dấu sự sụp đổ và tan rã của Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết (tức Liên Xô).

 

2. Nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự sụp đổ của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu

Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu chính là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội – mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp, hành chính, mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân dân, với nhiều hạn chế, sai lầm, mà không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Sự sụp đổ ấy có nguyên nhân khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài, sâu xa và trực tiếp. Chính những sai lầm, thiếu sót của mô hình chủ nghĩa xã hội đó không được phát hiện và khắc phục kịp thời, tồn tại kéo dài, tích tụ lại đã đẩy xã hội Xô Viết đến bờ vực của sự sụp đổ. Sự sụp đổ này xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau đây:

  • Một là, do Đảng và Nhà nước Liên Xô cũng như Đông Âu duy trì quá lâu đường lối quản lý hành chính tập trung quan liêu, bao cấp, mệnh lệnh, đóng cửa trên cả phương diện đối nội và đối ngoại, … nên không phát huy được tính năng động của nền kinh tế – xã hội, làm mất dân chủ cả trong và ngoài Đảng.
  • Hai là, nội bộ chính quyền của Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu có nhiều bất đồng, không thống nhất về đường lối, chủ trương và chính sách, gây nên mất đoàn kết nội bộ. Một số người lãnh đạo cấp cao còn bị dao động về lập trường tư tưởng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, phản bội Đảng và nhân dân.
  • Ba là, đường lối phát triển kinh tế – xã hội của Đảng có nhiều điểm không hợp lý, quá chủ quan, nóng vội, duy ý chí trong việc xác định vấn đề sở hữu, các bước đi, giải pháp trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không phát triển nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ, kinh tế thị trường mà cũng không nắm bắt được và không biết áp dụng những thành tựu hiện đại của khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất, dẫn tới tình trạng mất cân đối giữa các ngành kinh tế ở Liên Xô và Đông Âu kéo dài quá lâu.
  • Bốn là, những vấn đề dân tộc chậm được giải quyết hoặc chỉ được giải quyết theo lối tư duy cũ khiến cho những vấn đề này ngày càng trở nên bức xúc, dần dần trở thành một trong những nguyên nhân thúc đẩy sự suy thoái và sụp đổ của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu.
  • Năm là, do sức ép của việc phải chạy đua vũ trang và luôn bị chống phá bởi các âm mưu, chiến lược của các thế lực thù địch trong và ngoài nên chế độ chủ nghĩa xã hội Liên Xô và các nước Đông Âu dễ dàng bị đẩy vào tình thế nào không giải quyết hay cải cách sẽ trở nên khủng hoảng, sụp đổ.

Từ những nguyên nhân kể trên, kết hợp với bối cảnh của các nước lúc bấy giờ, có thể tiếp tục suy ra nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự sụp đổ của chế độ chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu chính là do những hạn chế, thiếu sót trong bản thân nền kinh tế – xã hội tồn tại lâu dài. Bởi lẽ, một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp thay cho cơ chế thị trường, kế hoạch hóa cao độ tuy đã có những phù hợp nhất định trong thời kỳ đặc biệt trước đây, song sẽ không còn phù hợp trong bối cảnh cần hiện đại, sáng tạo và năng động hơn. Việc cố gắng giữ lại mô hình này đã bộc lộ sự thiếu tôn trọng các quy luật phát triển khách quan về kinh tế – xã hội, chủ quan, duy ý chí, làm nảy sinh tình trạng thụ động xã hội, thiếu dân chủ và công bằng, vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa; từ đây gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng không chỉ tới kinh tế, chính trị và còn ảnh hưởng đến cả văn hóa – xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Và vì thế, việc chế độ chủ nghĩa xã hội khủng hoảng không được cải cách, chuyển hướng tích cực bị sụp đổ có thể được coi là điều tất yếu trong bối cảnh ở Liên Xô và các nước Đông Âu cũng như tình hình thế giới tại thời điểm đó.

Tóm lại, có thể khẳng định rằng, việc tìm hiểu nguyên nhân của sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu là bài học quý giá, là kinh nghiệm để các Đảng Cộng sản trên thế giới tránh vấp phải “sai lầm của lịch sử”, đặc biệt đối với Việt Nam hiện nay khi vấn đề suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang diễn ra trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc nắm rõ bản chất lịch sử là điều kiện cấp thiết nhằm góp phần tìm ra các giải pháp để giữ vững mục tiêu, lý tưởng, nền tảng tư tưởng của Đảng và sự trường tồn của dân tộc.

Trên đây là toàn văn bài viết của Luật Minh Khuê về nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Hi vọng bài viết này đã mang lại những thông tin hữu ích tới cho bạn. Luật Minh Khuê xin chân thành cảm ơn!