MÔ HÌNH KINH TẾ TỔNG QUÁT THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG CUỐN SÁCH CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

MÔ HÌNH KINH TẾ TỔNG QUÁT THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ

NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG CUỐN SÁCH CỦA 

TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG 

TS Nguyễn Dũng Anh 

Trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thành tựu của văn minh nhân loại và thực tiễn quá trình đổi mới ở nước ta, Đảng ta đã nhận thức, vận dụng sáng tạo về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam – Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bài viết khái quát quan điểm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của Đảng. Từ đó làm rõ đột phá lý luận về mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

         Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam được Đại hội IX (năm 2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam khái quát là kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), từng bước được bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội X, XI, XII của Đảng trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phát triển KTTT ở nước ta, vận dụng sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển KTTT hiện đại của các nước trên thế giới. 

Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra những nội hàm cơ bản về nền KTTT định hướng XHCN: “Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã – hội”(1).   

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, phát triển một số quan điểm mới về nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam: 

Thứ nhất, kế thừa những nội dung về phát triển KTTT định hướng XHCN trong Văn kiện Đại hội XII, Báo cáo chính trị Đại hội XIII nhấn mạnh cần phải tiếp tục thống nhất và nâng cao nhận thức về KTTT định hướng XHCN. Điểm mới của Văn kiện Đại hội XIII ở nội dung này là ngay từ đầu Văn kiện đã nêu rõ nội hàm của KTTT định hướng XHCN của nước ta và trên cơ sở đó nhấn mạnh những nội dung quan trọng của nội hàm này, để từ đó thống nhất nhận thức và thực hiện. 

Thứ hai, nêu rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Điểm mới nổi bật chính là trong mối quan hệ này bổ sung thêm nhân tố xã hội, trong đó cũng nêu rõ vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội trong mối quan hệ chung. 

Thứ ba, xác định hoàn thiện đồng bộ thể chế KTTT nói chung, nhưng tập trung vào tháo gỡ những điểm nghẽn đang cản trở sự phát triển KTTT của nước ta và nâng cao chất lượng thể chế. Cụ thể là hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế KTTT định hướng XHCN, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. 

Thứ tư, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Điểm mới nổi bật ở nội dung này là xác định rõ mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. 

Công trình của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”(2).

Mô hình kinh tế tổng quát trong TKQĐ đi lên CNXH ở Việt Nam có thể khái quát ở ba điểm sau:

         Một là, tuân thủ những đặc trưng của KTTT, bởi vì, KTTT là một phương thức, một kiểu tổ chức kinh tế mà xã hội loài người sáng tạo ra, là thành quả của văn minh nhân loại, có thể tồn tại ở các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau, các chế độ chính trị – xã hội khác nhau. KTTT ra đời, phát triển phụ thuộc vào các điều kiện như phân công lao động xã hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất,… Tuân theo các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu, lưu thông tiền tệ,… tạo động lực phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội. Thực tiễn thế giới đã minh chứng, nhiều quốc gia không theo chế độ chính trị – xã hội tư bản chủ nghĩa (TBCN) vẫn sử dụng KTTT làm phương tiện tạo lập cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế cho sự phát triển của mỗi quốc gia như: Trung Quốc, Lào… 

         Hai là, giữa KTTT và định hướng XHCN, thể hiện hai khía cạnh chủ yếu là sử dụng “phương tiện” KTTT để đạt “mục đích” định hướng XCHN của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Về mặt lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn của thế giới đã được kiểm chứng và khẳng định, KTTT là “phương tiện tốt nhất” tạo lập cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế cho sự phát triển của mỗi quốc gia. KTTT càng hiện đại và được vận hành có hiệu quả thì cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế do nó tạo ra càng có điều kiện gia tăng mạnh mẽ thế và lực. Còn “mục đích” KTTT bao giờ cũng gắn với một chế độ chính trị – xã hội nhất định, phục vụ cho mục tiêu và lợi ích của chế độ đó. Nền KTTT định hướng XHCN mục đích là phát triển, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế, phục vụ lợi ích của nhân dân và hoàn thiện quan hệ sản xuất nhằm xây dựng chế độ chính trị xã hội của CNXH. Giữa “mục đích” định hướng XHCN và “phương tiện” KTTT ở Việt Nam không có sự loại trừ, mâu thuẫn nhau mà là sự dung hợp, gắn kết, hỗ trợ lẫn nhau trong chỉnh thể thống nhất “KTTT định hướng XHCN”. Điều đó có nghĩa rằng, tính định hướng XHCN của nền KTTT hay tính định hướng trong phát triển nền KTTT là hoàn toàn đúng đắn, phản ánh mục tiêu, phương thức phát triển, phân phối của cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta; nhờ đó khai thác tốt nhất mặt tích cực của thị trường, đồng thời khắc phục và hạn chế mức thấp nhất những khuyết tật, rủi ro của nó nhằm hướng đến các mục tiêu của CNXH.

         Ba là, phát triển KTTT định hướng XHCN là kiểu tổ chức kinh tế xã hội phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Trước hết phải thấy rằng, Việt Nam đi lên CNXH từ xuất phát điểm rất thấp về kinh tế và con đường xây dựng CNXH là con đường quá độ, trải qua nhiều giai đoạn, bước đi khác nhau. Tất yếu khách quan Việt Nam phải phát triển KTTT với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; trong đó có sở hữu tư nhân, thành phần kinh tế tư nhân và các hình thức sở hữu hỗn hợp khác còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tất cả các thành phần kinh tế trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Đột phá lý luận về mô hình kinh tế tổng quát trong TKQĐ đi lên CNXH ở Việt Nam trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được thể hiện ở một số điểm sau:

Các nền KTTT hiện đại trên thế giới hiện nay đều có sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước. Nhà nước vừa bảo đảm, tôn trọng, tạo môi trường hoạt động cho các quy luật KTTT; vừa hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực, tự phát do các quy luật KTTT gây ra; giữ môi trường ổn định cho phát triển kinh tế và hướng sự phát triển kinh tế vào các mục tiêu xã hội, bảo đảm công bằng xã hội, quan tâm đến an sinh xã hội. Tuy nhiên, dù nhà nước tư bản có sự điều chỉnh, điều tiết đến đâu thì bản chất của nền kinh tế TBCN vẫn là phục vụ cho thiểu số lợi ích của giai cấp tư sản, không phải vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động; và khi nó còn tồn tại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất thì những mâu thuẫn đối kháng của xã hội TBCN do khuyết tật của nền KTTT tạo ra không những không mất đi mà ngày càng gia tăng và thêm gay gắt.

“Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân – yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số’, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản”(3).

Từ thực tiễn quá trình đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam về cơ bản đã hội đủ các yếu tố của nền KTTT hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế, như đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tự do sản xuất, kinh doanh, lưu thông những hàng hóa mà pháp luật không cấm, các chủ thể kinh tế cạnh tranh bình đẳng, hệ thống các loại thị trường phát triển ngày càng đồng bộ…; vai trò của nhà nước về quản lý kinh tế đã được đổi mới, như quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng nguồn lực kinh tế của nhà nước, không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường,… Trong điều kiện đó, các quy luật của KTTT vận hành đồng bộ, các chủ thể kinh tế cạnh tranh để tồn tại và phát triển; giá cả hàng hóa cơ bản do thị trường quyết định; sản xuất và lưu thông hàng hóa phải chú ý đến tín hiệu giá cả, quan hệ cung – cầu trên thị trường; thị trường đóng vai trò trực tiếp điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết hoạt động của các chủ thể kinh tế, huy động và phân bổ các nguồn lực của sản xuất,… Các yếu tố bảo đảm định hướng XHCN của nền KTTT gắn với vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, phát triển nhanh và bền vững đất nước,… 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường”(4)

Do đó, nội dung và phương thức quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo không mâu thuẫn, đối lập, không cản trở hoạt động của các quy luật KTTT, mà tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của các quy luật, để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”(5). Vì vậy, chắc chắn rằng, các quy luật của KTTT và định hướng XHCN hoàn toàn không đối lập nhau, không loại trừ nhau trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. 

Các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chỉ căn cứ vào việc phát triển kinh tế tư nhân và điều tiết kinh tế bằng các quy luật của thị trường trong TKQĐ đi lên CNXH để quy chụp Việt Nam đi theo con đường TBCN là sai lầm, chưa thấy hết được những nguyên tắc, bản chất, nội dung xây dựng CNXH ở Việt Nam trong từng giai đoạn cũng như trong cả chặng đường. Luận điệu này là phi thực tiễn và chưa hiểu hết bản chất và nội dung của quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam khi đồng nhất một nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể của một giai đoạn, một bước đi trong xây dựng CNXH với toàn bộ mục tiêu chung, mô hình tổng quát và nguyên tắc, bản chất trong cả chặng đường xây dựng CNXH ở Việt Nam. Việc xác định một nền kinh tế là “chủ nghĩa xã hội” hay “tư bản chủ nghĩa” không thể dựa vào tiêu chí về kinh tế tư nhân hay sự điều tiết của thị trường, mà quan trọng hơn là phải dựa vào tiêu chí về mục tiêu phát triển nền kinh tế; bản chất, nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế; quá trình hình thành, phát triển của nền kinh tế,… Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế đang ở trong TKQĐ lên CNXH nên tất yếu tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm huy động mọi nguồn lực để phát triển, trong đó kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng. Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, bình đẳng trước pháp luật với các thành phần kinh tế khác. Tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế tư nhân nhưng không đồng nhất với “tư nhân hóa” nền kinh tế trong nền kinh tế nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững định hướng XHCN trong phát triển nền KTTT. 

“Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(6). Do đó, tuyệt đối không có cái gọi là “xoay trục” hay “chuyển hướng” trong phát triển KTTT ở Việt Nam như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. 

Mặt khác, việc xác định một nền kinh tế định hướng XHCN hay TBCN không chỉ dựa vào tiêu chí về sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân hay sự điều tiết của thị trường mà còn phải dựa vào tiêu chí về mục tiêu phát triển nền kinh tế là vì ai, giai cấp, tầng lớp nào; nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế đó là gì; quá trình hình thành, phát triển nền kinh tế đó như thế nào; ai là người chủ thực sự của nền kinh tế đó?… Do vậy, giữa nền KTTT TBCN và nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam có sự khác nhau căn bản và điểm khác biệt rõ nhất là, trong nền KTTT TBCN, người làm chủ là giới chủ tư bản, là giai cấp tư sản, còn trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, người làm chủ là toàn thể nhân dân có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

“Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta”(7). Thực tế đó đã chứng minh và khẳng định sự đúng đắn, khoa học, hiệu quả của việc sử dụng KTTT định hướng XHCN làm “phương tiện” và “mục đích” để xây dựng CNXH ở Việt Nam trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Những thành tựu này tạo tiền đề, điều kiện, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục công cuộc đổi mới và phát triển trong thời gian tới; càng khẳng định chủ trương, quan điểm, nhận thức về phát triển nền KTTT định hướng XHCN; đặc biệt là những đột phá lý luận về mô hình kinh tế tổng quát trong TKQĐ đi lên CNXH ở Việt Nam qua công trình của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng./.

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện  Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  XIII, Tập 1, Nxb. CTQG ST, HN. 2021, tr. 128-129.

(2), (3), (4), (5), (6), (7) Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. CTQG ST, HN. 2022, tr.25, 20-21, 21, 21-22, 26-27, 33