Khái niệm về pháp chế xã hội chủ nghĩa? Các yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa?

Pháp chế là một thuật ngữ quen thuộc trong xã hội ta. Nhưng pháp chế là gì, bản chất của nó ra sao, điều này đòi hỏi phải lý giải một cách cụ thể và chính xác, do đó cần phải đi sâu tìm hiểu bản chất của khái niệm này.

1. Khái niệm về pháp chế xã hội chủ nghĩa

Pháp chế là một thuật ngữ quen thuộc trong xã hội ta. Nhưng pháp chế là gì, bản chất của nó ra sao, điều này đòi hỏi phải lý giải một cách cụ thể và chính xác, do đó cần phải đi sâu tìm hiểu bản chất của khái niệm này. Điều 12 của Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Điều 12 Hiến pháp 1992 còn ghi: “các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật”. Như vậy, pháp chế đòi hỏi, tất cả các cơ quan, tổ chức, công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật; kiên quyết đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Ở đây, pháp chế là nguyên tắc cơ bản, thông qua đó Nhà nước thực hiện sự quản lý bằng pháp luật đối với xã hội. Pháp chế xã hội chủ nghĩa có quan hệ chặt chẽ với dân chủ, như là một bộ phận hợp thành của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ không có ý nghĩa, nếu như nó mất đi tính kỷ luật và ý thức pháp luật của các tổ chức, cá nhân. Dân chủ và pháp chế không tồn tại một cách biệt lập. Quyền tự do, dân chủ của con người được ghi trong Hiến pháp và trong các đạo luật thể hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đồng thời thông qua việc bảo đảm pháp chế mà các quyền tự do, dân chủ của công dân được thực hiện. Pháp luật và pháp chế có quan hệ mật thiết với nhau. Để xây dựng và củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa phải có pháp luật. Vì vậy, cần phải xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Việc tồn tại một hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất tự thân nó chưa củng cố được pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bản thân pháp luật không đồng nghĩa với pháp chế.

Trong lịch sử đã từng tồn tại những nhà nước có một hệ thống pháp luật đầy đủ nhưng lại không có pháp chế vì nội dung của pháp luật không phù hợp với văn hóa dân tộc, điều kiện phát triển kinh tế – xã hội, không được mọi người ủng hộ, không được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, công bằng.

Từ những vấn đề trên có thể định nghĩa, pháp chế xã hội chủ nghĩa là chế độ pháp luật, trong đó yêu cầu, đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải tuân thủ, chấp hành, sử dụng, áp dụng, thực hiện đúng đắn, nghiêm chỉnh pháp luật trong mọi hoạt động, hành vi, xử sự của mình; đồng thời phải không ngừng đấu tranh phòng ngừa, chống các tội phạm và các vi phạm pháp luật khác, xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật.

2. Các yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa

Pháp chế xã hội chủ nghĩa cần đảm bảo các yêu cầu sau:

a) Bảo đảm tính thống nhất của việc xây dựng, ban hành và thực hiện pháp luật

Pháp luật phải được nhận thức và thực hiện thống nhất trong cả nước và ở tất cả các ngành, các cấp, cơ quan, đơn vị. Nội dung yêu cầu này thể hiện ở hai khía cạnh: Một là, trong hệ thống văn bản pháp luật thì Hiến pháp và luật là những văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất. Các văn bản quy phạm pháp luật phải được ban hành dựa trên Hiến pháp và các luật. Sự thống nhất của pháp chế được bảo đảm bằng hiệu lực tối cao của Hiến pháp và luật so với các văn bản dưới luật. Các văn bản dưới luật phải phù hợp với Hiến pháp và luật. Văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước ở địa phương phải phù hợp, không mâu thuẫn với các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành. Hai là, các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị – xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải chấp hành Hiến pháp và pháp luật một cách nghiêm minh, thường xuyên, liên tục.

b) Bảo đảm quyền con người và lợi ích hợp pháp của công dân

Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được Hiến pháp quy định và cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật, được các cơ quan nhà nước bảo đảm và bảo vệ.

c) Ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật

Bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào cũng đều xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, xã hội và công dân. Bởi vậy, các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh đối với những hành vi vi phạm đó. Trong xử lý các hành vi vi phạm pháp luật phải thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, không phân biệt đối tượng vi phạm pháp luật là ai, địa vị xã hội như thế nào; xử lý đúng pháp luật, đúng người, đúng tội theo quy định của pháp luật.

3. Các biện pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước

a) Đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật

Pháp luật xã hội chủ nghĩa là tiền đề của pháp chế xã hội chủ nghĩa, muốn tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý xã hội bằng pháp luật phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ cả về nội dung và hình thức. Phải đẩy mạnh hơn nữa công tác hệ thống hóa pháp luật, rà soát, loại bỏ những văn bản quy phạm pháp luật không còn thích hợp với thực tế cuộc sống, đồng thời chú trọng ban hành các đạo luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Việc xây dựng pháp luật phải theo đúng thẩm quyền đã được quy định trong Hiến pháp, trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời phải mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia vào quá trình thảo luận xây dựng pháp luật.

b) Tổ chức tốt công tác thực hiện pháp luật Tổ chức thực hiện pháp luật có liên quan đến mọi chủ thể pháp luật, là khâu trung tâm, quan trọng nhất của công tác tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

– Để mọi người thực hiện tốt pháp luật, trước hết phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, giải thích pháp luật, nhằm hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cho mọi thành viên trong xã hội. Ý thức pháp luật là tiền đề trực tiếp nhất cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật.

– Bảo đảm nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong áp dụng pháp luật. Áp dụng pháp luật phải bảo đảm mọi công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm còn Nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép.

c) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật

Kiểm tra, giám sát là trách nhiệm chung của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội và mọi công dân, nhưng trực tiếp là các cơ quan quyền lực nhà nước, các cơ quan kiểm tra, thanh tra nhà nước; Thanh tra nhân dân, giám sát của Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân. Cần phải kiện toàn tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của các cơ quan trên nhằm phát huy vai trò của chúng trong việc củng cố, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật phải đặc biệt coi trọng quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và các cơ quan, tổ chức đối với những hành vi vi phạm pháp luật.

d) Kiện toàn các cơ quan quản lý nhà nước và tư pháp

Kiện toàn các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan tư pháp gọn nhẹ với một đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo, quản lý. Cán bộ, công chức quản lý hành chính nhà nước và cán bộ tư pháp phải là những người nắm vững pháp luật, quản lý nhà nước theo đúng pháp luật; cương quyết đấu tranh chống mọi hành vi tham nhũng, cửa quyền, vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa.

e) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các cấp bộ Đảng, cơ quan của Đảng từ Trung ương tới địa phương phải thường xuyên lãnh đạo công tác pháp chế, tăng cường cán bộ có phẩm chất và năng lực cho lĩnh vực pháp chế và kiểm tra chặt chẽ hoạt động thực hiện pháp luật của tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức, đặc biệt là những cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, đảng viên của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, thực hiện đúng pháp luật, không can thiệp, làm thay thẩm quyền của các cơ quan, công chức nhà nước, phải gương mẫu, kiên quyết chống mọi biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, mọi hành vi vi phạm pháp luật.

4. Vai trò của công chức trong việc tăng cường củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa

Công chức nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vai trò này được thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau:

– Công chức nhà nước là những người trực tiếp tổ chức thực hiện pháp luật, là khâu quan trọng nhất của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Công chức là người tuyên truyền, giáo dục, giải thích pháp luật, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong việc củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa.

– Công chức là người áp dụng pháp luật, trực tiếp giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm các văn bản pháp luật được thực hiện một cách nghiêm minh.

– Công chức là những người nắm vững pháp luật, quản lý nhà nước theo pháp luật, cương quyết đấu tranh chống mọi hành vi vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa.

5. Áp dụng pháp luật và đặc điểm việc áp dụng pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước

Áp dụng pháp luật là một hoạt động có tổ chức, mang tính quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền nhằm thực hiện trong thực tế các quy phạm pháp luật trong những tình huống cụ thể của cuộc sống.

a) Áp dụng pháp luật được tiến hành trong các trường hợp sau:

– Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với những cá nhân, tổ chức, cơ quan vi phạm pháp luật hoặc trong những trường hợp khẩn cấp.

– Khi những quyền chủ thể và những nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các chủ thể pháp luật không mặc nhiên phát sinh nếu không có sự can thiệp của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền.

 – Khi phát sinh tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được.

– Trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy cần phải tham gia để kiểm tra, giám sát, thanh tra hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế. Ví dụ, việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp, sao các văn bằng, chứng chỉ…

b) Áp dụng pháp luật có các đặc điểm sau:

– Thứ nhất, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức – quyền lực nhà nước. Vì vậy, hoạt động này chỉ do những cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành. Pháp luật quy định mỗi loại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện một số hoạt động áp dụng pháp luật nhất định. Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành theo ý chí đơn phương của Nhà nước, người có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng; sự áp dụng này có tính chất bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và các chủ thể có liên quan; trong trường hợp cần thiết, quyết định áp dụng pháp luật được bảo đảm thực hiện bởi các biện pháp cưỡng chế nhà nước.

– Thứ hai, áp dụng pháp luật là hoạt động được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định chặt chẽ. Ví dụ, việc giải quyết một vụ án hành chính được điều chỉnh bởi Luật Tố tụng hành chính hoặc việc xử phạt hành chính được điều chỉnh bởi những quy phạm thủ tục xử phạt hành chính. Các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền và các bên có liên quan trong quá trình áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có tính thủ tục.

– Thứ ba, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội. Đối tượng của hoạt động áp dụng là những quan hệ xã hội cần sự điều chỉnh cá biệt, bổ sung trên cơ sở những quy phạm pháp luật chung. Bằng hoạt động áp dụng pháp luật, những quy phạm pháp luật chung được cá biệt hóa, cụ thể hóa đối với những cá nhân, cơ quan, tổ chức cụ thể.

– Thứ tư, áp dụng pháp luật là hoạt động có tính sáng tạo. Khi áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải phân tích vụ việc, làm sáng tỏ nội dung của vụ việc, từ đó lựa chọn quy phạm, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Tóm lại, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, quyền lực của Nhà nước được thực hiện thông qua những cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm cá biệt hóa những quy định của pháp luật vào những trường hợp cụ thể đối với cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức cụ thể.