Công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn hiện nay – Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp

Khái niệm Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn? Tại sao đảng ta xác định nội dung công nghiệp hóa trong những năm trước mắt phải coi trọng công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

doc

17 trang

|

Chia sẻ: lvcdongnoi

| Lượt xem: 11157

| Lượt tải: 10

download

Bạn đang xem nội dung tài liệu Công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

NHÓM 9:
ĐỖ THỊ LOAN
NGUYỄN THỊ THU HIỀN
NGUYỄN THỊ THANH
HOÀNG THỊ THÙY
BÀI TẬP NHÓM MÔN:
NHỮNG VẤN ĐỂ KINH TẾ CHÍNH TRỊ TRONG TKQĐ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM.
CÂU HỎI:
Khái niệm Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn? Tại sao đảng ta xác định nội dung công nghiệp hóa trong những năm trước mắt phải coi trọng công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn?
Khái niệm CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn. Sau đây tôi xin đưa ra một vài quan điểm về CNH –HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Theo tác giả cuốn sách “công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các nước Châu Á và VIệt Nam” đã hình dung được công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn thực chất là quá trình phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hóa. Cụ thể là: thứ nhất, phát triển các hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp; thứ hai, trang bị công nghệ và vật tư thiết bị tiên tiến cho nông nghiệp; thứ ba, tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn phục vụ yêu cầu từng bước đô thị hóa nông thôn. Quan niệm đó đã làm rõ thực chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và chỉ ra những nội dung cụ thể của nó. Tuy vậy, tác giả vẫn chưa đề cập đến công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn dưới góc độ một khái niệm “kép”.
Trong cuốn “ thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” xác định : “ công nghiệp hóa nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc đổi mới căn bản về công nghệ và kỹ thuật oqr nông thôn tạo nền tảng cho việc phát triển nhanh, bền vững theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân với tốc độ cao. Còn công nghiệp hóa nông nghiệp là một bộ phận của công nghiệp hóa nông thôn. Hiện đại hóa nông thôn không chỉ bao gồm công nghiệp hóa, nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ và tổ chức tỏng các lĩnh vực ngoài sản xuất vật chất ở nông thôn, mà còn bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội, hệ thống giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nông dân và các dịch vụ sinh hoạt ở nông thôn. Còn hiện đại hóa nông nghiệp là quá tình không ngừng nâng cao tình độ khoa học – kỹ thuật – công nghê, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp”. Quan niệm này cũng mới chỉ dừng lại ở chỗ coi CNH nông nghiệp là một bộ phận của CNH nông thôn chứ chưa đưa ra quan niệm cụ thể về CNH nông nghiệp là gì.
Có nhiều khái niệm về CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn nhưng chưa có khái niệm nào đưa ra một cách rõ ràng CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn là gì. Nhưng theo tác giả của cuốn “ công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở bắc trung bộ ” xác định CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn bao gồm bốn khái niệm khác nhau đó là: công nghiệp hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông thôn, hiện đại hóa nông nghiệp và hiện đại hóa nông thôn.
Trong đó:
Công nghiệp hóa nông nghiệp là quá trình chuyển từ nền nông nghiệp truyền thống, lạc hậu sang nền nông nghiệp hàng hóa lớn gắn với thị trường, tác động của công nghiệp. Công nghiệp hóa nông thôn là quá trình biến đổi nền kinh tế nông thôn thuần nông san nền kinh tế công nghiệp – dịch vụ, và cùng với nó là lối sống nông nghiệp chuyển sang lối sống công nghiệp.
Hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình ứng dụng những tiến bộ khoa học – công nghệ tiên tiến vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Hiện đại hóa nông thôn là quá trình biến đổi cơ cấu kinh tế nông thôn từ trạng thái kinh tế thuần nông thành khu vực nông thôn phát triển toàn diện, hiện đại dựa trên nền tảng của sự phát triển khoa học – công nghệ, phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Giữa hiện đại hóa nông nghiệp và hiện đại hóa nông thôn có sự khác nhau nhất định. Nếu hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình làm tăng năng suất lao động, tăng chất lượng và giá trị sản phẩm nông nghiệp, thì hiện đại hóa nông thôn ngoài việc đó ra còn phải tạo sự phát triển của công nghiệp, dịch vụ và mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội nông thôn.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX(tháng 3 – 2002 ) đã chỉ ra nội dung tổng quát của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn gồm hai quá trình là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn.. Văn kiện ghi:
“- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường.”
“- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỉ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỉ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn.”
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn tuy có sự khác nhau nhất định về nội dung nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bởi vì nước ta có đền ba phần tư dân số sinh sống ở nông thôn và hai phần ba lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, nên nông nghiệp và nông thôn không tách rời nhau, do đó công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn cũng gắn liền với nhau. Mặt khác, do nước ta tiến hành công nghiệp hóa trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang diễn ra rất mạnh mẽ nên không thể chờ đợi thực hiện xong công nghiệp hóa rồi mới tiến hành hiện đại hóa như các nước khác, mà phải gắn liền công nghiệp hóa với hiện đại hóa. Đây cũng là quá trình phát triển hợp logic, logic của sự phát triển “kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học – công nghệ thế giới”
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quan niệm nêu trên có thể đi đến thống nhất quan niệm chung về CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn như sau: CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình hoàn thiện phương thức tổ chức, phương thức quản lý và ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm xóa bỏ cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn truyền thống, xây dựng cơ cấu kinh tế và kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn hiện đại, đưa nông thôn phát triển nhanh và bền vững. Đây là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: một mặt, đó là quá trình xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật để chuyển đổi một cách căn bản từ lao động thủ công là chính sang lao động sử dụng máy móc với công nghệ tiên tiến, hiện đại trong tất cả các lĩnh vực và ngành nghề ở nông thôn; mặt khác, đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế – xã hội nông thôn từ kinh tế thuần nông, khép kín, phụ thuộc chặt chẽ vào đất canh tác sang nền kinh tế phát triển toàn diện, gắn nông nghiệp với công nghiệp và các ngành phi nông nghiệp khác trên địa bàn nông thôn, từng bước đô thị hóa nông thôn.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là một vấn đề rộng lớn và phức tạp. Bởi vậy việc xác định được nội hàm của khái niệm này sẽ góp phần làm rõ nội dung CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn và do đó đưa ra được phương hướng và các biện pháp thích hợp thúc đấy nông nghiệp , nông thôn không ngừng phát triển tiến lên hiện đại.
Sự cần thiết của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam.
2.1 Sự cần thiết CNH-HĐH NN-NT trong những năm trc mắt
2.1.1Quan điểm của Đảng về CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định tầm quan trọng của vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước được Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (năm 1960) nhưng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thì phải đến Đại hội VIII (năm 1996) mới được đề cập một cách đầy đủ. Tại đại hội IX (năm 2001), một lần nữa Đảng lại xác định
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua Đại hội VII và các nghị quyết của Trung ương khóa VII, tiếp tục khẳng định, làm rõ quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn, theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ra nghị quyết về: “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội nông thôn”. Nghị quyết đã khẳng định: Trải qua các thời kỳ cách mạng từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định tầm quan trọng của vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn…lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu và là khâu đột phá. Nghị quyết V đã xác định một hệ thống quan điểm nhằm tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta trong giai đoạn mới: Đặt sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu. Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Gắn sản xuất với thị trường, mở rộng sản xuất đi đôi với mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật và công nghệ, để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài; bảo vệ và phát triển tài nguyên, cải thiện môi trường sinh thái, xây dựng nông thôn mới. Đổi mới kinh tế đi đôi với đổi mới hệ thống chính trị trong nông thôn.
Những quan điểm trên đây, phản ánh nhận thức mới, là bước phát triển tư duy lãnh đạo của Đảng trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta. Đại hội lần thứ VIII và các Nghị quyết Trung ương IV, Nghị quyết 06 của Bộ Chính trị (Khóa VIII) tiếp tục cụ thể hóa hơn về nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nghị quyết Trung ương IV (Khóa VIII) chỉ rõ: Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp tác hóa, dân chủ hóa. Nghị quyết xác định đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao động ở nông thôn, giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản; phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác, đổi mới hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông thôn; phát triển các cơ sở quốc doanh ở vùng sâu, vùng xa.
Trong Nghị quyết số 06 của Bộ Chính trị (Khóa VIII) về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn đã khẳng định 4 quan điểm và 6 mục tiêu phát triển. Về quan điểm: Coi trọng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế biến, ngành nghề, gắn sản xuất với thị trường để hình thành sự liên kết nông-công nghiệp-dịch vụ và thị trường ngay trên địa bàn nông thôn và trên phạm vi cả nước; gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới. Phát huy lợi thế của từng vùng và cả nước, áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm và nguyên liệu công nghiệp, hướng mạnh ra xuất khẩu. Phát triển nền nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần trở thành nền tảng, hợp tác và hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng pháp luật. Tiếp tục phát triển nhiều hình thức kinh tế hợp tác, các loại hình hợp tác xã dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân, từng bước xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã.
Đại hội IX của Đảng và nhất là Nghị quyết Trung ương V về “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010” đã làm rõ hơn những nội dung tổng quát và quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường. Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn.
Đồng thời Nghị quyết cũng chỉ rõ 5 quan điểm về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn: Đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người, ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học, công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hóa quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao, bảo vệ môi trường, phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai, phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững. Dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài. Kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội, xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đồng thời chỉ rõ định hướng phát triển về kinh tế: Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân.
Vì vậy, hiện nay và trong nhiều năm tới vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, tạo điều kiện từng bước hình thành nền nông nghiệp sạch.
2.1.2Sự cần thiết của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.
Trong khi coi CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta Đảng ta vẫn xác định nội dung của CNH, HĐH đất nước trong những năm trước mắt là “coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn”. Điều đó bắt nguồn từ vai trò của nông nghiệp, nông thôn trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội và những lợi thế phát triển của Việt Nam hiện nay. Cụ thể, việc tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Lương thực là sản phẩm tiêu dùng thiết yếu đối với cuộc sống con người, nhất là đối với một nước có truyền thống tiêu dùng lúa gạo như Việt Nam. Vì vậy, vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia là nhân tố quan trọng hàng đầu để ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, nhờ đó thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, thực hiện phân công lại lao động xã hội hợp lý hơn. Không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả các nước Đông Á, sự phát triển nông nghiệp vẫn được coi là một trong các nhân tố quan trọng tạo nên sự thần kỳ của họ trong nửa cuối của thế kỷ trước.
Quy mô dân số Việt Nam ngày càng tăng lên rất nhanh, trong khi đó quỹ đất nông nghiệp của nước ta lại ít. Do đó, để áp ứng đầy đủ nhu cầu lương thực cho hơn 85 triệu dân đòi hỏi nông nghiệp phải được CNH, HĐH để tạo sự phát triển vượt bậc về năng suất và sản lượng cây trồng, vật nuôi. Vả lại, nếu nông nghiệp không sản xuất đủ lương thực thì việc dùng ngoại tệ để nhập khẩu lương thực sẽ đè nặng lên chi tiêu của chính phủ, do đó sẽ ngăn cản việc nhập khẩu máy móc, công nghệ, nguyên nhiên vật liệu công nghiệp hóa đất nước. Thực tế đó nói lên rằng, nếu trong cơ cấu kinh tế quốc dân mà không có một nền nông nghiệp phát triển để đảm bảo đầy đủ lương thực cho con người thì toàn bộ nền kinh tế sẽ gặp không ít khó khăn trong việc tạo ra tốc độ tăng trưởng cao. Do đó, vấn đề an ninh lương thực là nhiệm vụ thường xuyên của quốc gia cũng như từng địa phương.
Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc giải quyết vấn đề lương thực (từ một nước thiếu lương thực triền miên trở thành nước xuất khẩu gạo lớn của thế giới), được các nước đành giá cao. Tuy vậy, hiện nay vấn đề an toàn lương thực vẫn phải được quan tâm, bởi lương thực bình quân hiện tại vẫn chưa đạt mức tiêu chuẩn an ninh lương thực mà Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO) của Liên hợp quốc đưa ra là 500 kg/người/năm (cao nhất như năm 2003 ở Việt Nam cũng mới đạt 464,5 kg/người). Mặt khác, đất canh tác đang có xu hướng ngày càng giảm do bị chuyển mục đích sử dụng sang lĩnh vực phi nông nghiệp cùng với tình trạng mất mùa do thiên tai bất thường vẫn thường xuyên xảy ra. Thực tế là, cho đến năm 2002 mặc dù mức lương thực bình quân đạt 456,4kg/người nhưng cả nước vẫn còn 22,5% số gia đình bị thiếu ăn, trong đó có 6-85 gia đình bị đói.
Mức an ninh lương thực được tính toán dựa vào tổng mức nhu cầu về ăn, nhu cầu chế biến thực phẩm, làm giống thức ăn cho chăn nuôi gia sú, xuất khẩu và dự trữ chiến lược của Nhà nước, do đó nhu cầu dự trữ quốc gia là rất lớn. hiện nay, mặc dù cơ cấu bữa ăn đã có sự thay đổi theo hướng giảm sản lượng lương thực trong khẩu phần ăn của mỗi người, song do quy mô dân lớn nên tổng mức nhu cầu về lương thực vẫn lớn theo. Nếu theo tiêu chuẩn của tổ chức lương thực và nông nghiệp thế giới về an ninh lương thực như trên thì Việt Nam cần đạt mức sản lượng lương thực trên khoảng 40 triệu tấn. Vì vậy, việc tập trung nguồn lực cho phát triển nông nghiệp trên cơ sở đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay.
Muốn đảm bảo cho nông nghiệp có một sản lượng lớn, một tốc độ tăng trưởng cao cần phải có được những loại giống cây, giống con năng suất cao, chất lượng tốt đi đôi với phát triển cơ giới hóa các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp, từ làm đất đến tưới tiêu, chăm bón thu hoạch và chế biến. điều đó chỉ thực hiện được khi nông nghiệp và nông thôn được CNH, HĐH. Nói cách khác, phải có sự tác động của công nghiệp vào nông nghiệp để tạo một nền nông nghiệp phát triển bền vững, đảm bảo nhu cầu của xã hội và tăng sản lượng xuất khẩu, thực hiện tốt chủ trương “đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo” mà hội nghị lần thứ năm ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã xác định.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu của sự phát triển công nghiệp và dịch vụ.
Nông nghiệp và nông thôn không chỉ sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng trực tiếp cho con người, mà còn là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp trước hết là cho công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Vì vậy, sự lạc hậu hay tiến bộ của nông nghiệp, nông thôn có ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp và dịch vụ.
Thực tế nhiều nước đã chỉ ra rằng, sự lạc hậu của lực lượng sản xuất tại nông thôn đã hạn chế đến sự tăng trưởng của công nghiệp thành thị, vì nguồn tích lũy thấp, mức đầu tư bị giảm xuống. Trong trường hợp đó, khu vực công nghiệp ở thành thị không đủ sức cải tạo khu vực nông nghiệp cổ truyền ở nông thôn như vai trò vốn có của nó, mà ngược lại cả nông nghiệp và công nghiệp đều rơi vào tình trạng kém phát triển. Chỉ có CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, làm cho năng suất lao động nông nghiệp tăng lên, khối lượng nguyên liệu cung cấp cho nông nghiệp nhiều, khi đó công nghiệp mới có cơ hội phát triển, và đến lượt nó công nghiệp sẽ thúc đẩy trở lại đối với sự phát triển nông nghiệp và các nghành khác. Như vậy, CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn tạo ra quy mô và tốc độ tăng trưởng của các nguồn nguyên liệu nông nghiepejm là nhân tố có tác động quan trọng đến quy mô và tốc độ tăng trưởng của công nghiệp, dịch vụ và các ngành kinh tế khác.
Mặt khác, nông nghiệp, nông thôn là địa bàn rộng lớn tiêu thụ các sản phẩm của công nghiệp, từ tư liệu sản xuất, vật tư thiết bị đến các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng. Nhiều nhà kinh tế dã khẳng định rằng, với vai trò là thị trường tiêu thụ hàng hóa cho lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, nông nghiệp, nông thôn đã trở thành động lực thúc đẩy công nghiệp và dịch vụ phát triển, và như vậy nó còn quan trọng hơn cả vai trò là nguồn cung cấp “ đầu vào” cho công nghiệp. Nói cách khác, tăng trưởng của lĩnh vực công nghiệp phụ thuộc vào tăng trưởng của khu vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Do đó, nếu bóc lột lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn vượt quá mức đầu tư trở lại cho nó thì sẽ làm cho khu vực này rơi vào tình trạng trì trệ, dẫn đến tình trạng giảm sút tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp. Việc thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhằm làm cho nông nghiệp, nông thôn phát triển nhanh và bền vững sẽ đáp ứng được yêu cầu phát triển của công nghiệp và dịch vụ. Một khi nông nghiệp được CNH, HĐH, nông dân giàu có lên họ sẽ mua nhiều hàng hóa của công nghiệp sản xuất ra, đồng thời sẽ cung cấp đầy đủ lương thực, nguyên liệu cho công nghiệp và thành thị. Như vậy là, nông nghiệp phát triển, nông thôn giàu có sẽ giúp cho công nghiệp phát triển; công nghiệp phát triển đến lượt nó lại thúc đẩy nông nghiệp phát triển mạnh hơn nữa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng xác định: “Nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực và nguyên liệu đồng thời là một nguồn xuất khẩu quan trọng, nông thôn là thị trường tiêu thụ to nhất hiện nay, cho nên cần phải cải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở đển phát triển các ngành khác…”. “Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính”.
Ngoài ra, nông nghiệp, nông thôn còn là nơi cung cấp nguồn nhân lực dồi dào cho các ngành kinh tế khác. Dưới tác động của khoa học và công nghệ, quá trình CNH, HĐH sẽ giải phóng một bộ phận lao động ra khỏi nông nghiệp để chuyển sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, do đó công nghiệp và dịch vụ sẽ có cơ hội để phát triển nhanh.
Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu tích lũy vốn cho nền kinh tế.
Là một nước nông nghiệp với đa phần dân số sinh sống ở nông thôn, thế mạnh của nước ta là thế mạnh về nông nghiệp và các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn. Đây là tiềm năng to lớn cần khai thác để tạo nguồn vốn tích lũy, và cũng là mục tiêu của chủ trương dân giàu nước mạnh, xã hội coong bằng, dân chủ, văn minh.
Thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn sẽ cho phép khai thác triệt để và có hiệu quả tiềm năng đa dạng của nông lâm, ngư nghiệp ở nước ta nhằm tạo giá trị thu nhập cao. Việc phát triển công nghệ sinh học, một thành tựu của tiến trình CNH, HĐH sẽ tạo ra nhiều giống cây, con mới phù hợp với điều kiện sinh tháo, rút ngắn thời gian canh tác, do đó sẽ tăng vụ và tăng sản lượng và giá trị trên một đơn vị diện tích. Việc áp dụng thành tựu khoa học – kỹ thuật hiện đại trong đánh bắt và chế biến hải sản sẽ làm tăng sản lượng và giá trị của nguồn lợi từ biển từ đó sẽ tạo nguồn thu nhập cao cho ngư dân. Tóm lại, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn làm cho năng suất lao động nông nghiệp và các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn được nâng cao, thu nhập của nông dân tăng lên thì chính phủ sẽ có cơ hội huy động một phần thu nhập từ nông dân thông qua nhiều kênh khác nhau như thuế sử dụng đất, lãi suất tín dụng, hoặc các chi phí tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ khác, nhờ đó mà có thêm nguồn thu nhập cho nền kinh tế.
Ở các nước đang phát triển, ngoài nguồn vốn từ viện trợ và đầu tư nước ngoài thì cần thiết phải có nguồn vốn từ tiết kiệm trong nước, trong đó nguồn thặng dư nông nghiệp là quan trọng. Đối với Việt Nam, trong giai đoạn đầu, nguồn vốn trong nước tất yếu phải dựa vào nông nghiệp và nông thôn, vì đây là khu vực rất lớn, xét cả về khía cạnh lao động và tổng sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn do nông nghiệp, nông thôn tạo ra sẽ được đầu tư trước hết và chủ yếu vào các hoạt động kinh doanh nông nghiệp và một số hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn. Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp và kinh tế nông thôn sẽ làm tăng đáng kể nguồn vốn tích lũy cho nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy sự CNH, HĐH đất nước.
Nói cách khác, Việt Nam là một nước nông nghiệp nên việc tích lũy vốn từ nông nghiệp có vai trò quyết định năng lực nội sinh của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Ngay cả khi nền nông nghiệp chưa phát triển thì vấn đề tích lũy vốn từ nông nghiệp vẫn là hiện thực, bởi vì dù tỷ lệ tích lũy từ nông nghiệp không lớn nhưng do diễn ra trên diện rộng, và theo “quy luật số đông” thì nguồn vốn tích lũy từ nông nghiệp vẫn không phải là nhỏ. Thực tế là, nông nghiệp và nông thôn nước ta trong những năm gần đây đã không chỉ tạo ra nguồn thu nhập lớn trong tổng sản phẩm quốc nội, mà còn tạo ra nguồn vốn ngoại tệ quan trọng. Trong thời kỳ 1991-2002, giá trị sản phẩm xuất khẩu của nông. Lâm nghiệp và thủy sản bình quân hàng năm chiếm khoảng 30% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Cho nên, một khi nông nghiệp và nông thôn phát triển thì sự đóng góp của nó cho sự nghiệp CHN, HĐH nền kinh tế nói chung sẽ nhiều hơn.
Trong buổi ban đầu, khi công nghiệp chưa phát triển đủ sức để tạo ra nguồn tích lũy lớn cho nền kinh tế thì chính sự tác động của công nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp làm cho nông nghiệp phát triển cũng là cách để tạo tích lũy đáng kể nhờ tạo được khối lượng thặng dư nông nghiệp. Điều này cho phép nông nghiệp không chỉ dành được một phần thặng dư thích đáng được tạo ra để mở rộng sản xuất của bản thân nông nghiệp mà còn một phần tích lũy thích hợp dành cho công nghiệp.
Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu của sự ổn định chính trị, xã hội và môi trường.
Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp và kinh tế nông thôn do CNH, HĐH tạo ra sẽ đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cao cho gần 70% dân số sinh sống tạo nông thôn, đo đó là điều kiện căn bản để tạo nên sự ổn định chính trị – xã hội của cả nước. Nói cách khác, nếu nông nghiệp phát triển tạo ra đủ lương thực, thực phẩm để nuôi sống dân cư nông thôn thì sẽ tạo ra sự ồn định của nông thôn. Nông thôn phát triển, đời sống nông dân no đủ, họ sẽ tin tưởng vào cuộc sống, vào sự lãnh đạo của Đảng do đó mà yên tâm làm giàu, xây dựng nông thôn giàu đẹp, ổn định. Sự ổn định của nông thôn sẽ có tác động rất lớn đến sự ổn định của cả nước. Hiện nay, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua nhiều năm bị chiến tranh tàn phá, do đó đang tồn tại sự chênh lệch khá xa về kinh tế và văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng trung du và miển núi, giữa miền Nam và miền Bắc, do đó đã tiềm ẩn nguy cơ của sự bất ổn định.
Hơn nữa, sự ổn định của nông nghiệp và nông thôn đã làm tăng thêm làn sóng di cư từ nông thôn ra thành thị, tạo nên hiện tượng quá tải ở thành thị. Quá trình đô thị hóa ồ ạt đặt ra những thách thức về môi trường đối với thành phố, như vấn đề vệ sinh, ô nhiễm môi trường sống, nhu cầu nước sạch giao thông vận tải, rác thải, trật tự trị an… Do vậy, tiến hành CNH, HĐH đất nước không thể không coi trọng đầu tư vốn cho nông nghiệp và nông thôn, không thể không gắn CNH, HĐH nông nghiệp với CNH, HĐH nông thôn để giảm dần sự cách biệt về trình độ phát triển giữa các vùng trong nước. Trong nhiều năm tới, mặc dù kinh tế đô thị sẽ tăng nhanh, cần bổ sung thêm lao động, nhưng vì công nghiệp chỉ thu nhận lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật nên khả năng thu hút lao động của công nghiệp trên thực tế vẫn thấp hơn nhu cầu. Do đó, đại đa số lao động hiện có và cả số đông lao động mới lớn vẫn sẽ phải tìm kiếm việc làm ở nông thôn. Tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn sẽ giả quyết được công ăn việc làm tại chỗ cho số lao động đó, do đó vừa cho phép đảm bảo công bằng xã hội, vừa giảm sức ép đối với các đô thị.
Sự lạc hậu của nông nghiệp cùng với tốc độ tăng dân số cao ở nông thôn là nguyên nhân của tình trạng nghèo đói của nông thôn hiện nay. Trong số người nghèo của Việt Nam có đến 90% đang sinh sống ở nông thôn, vì vậy việc tiến hành CNH, HĐH NN-NT là biện pháp hữu hiệu nhất để xóa đói giảm nghèo. Chỉ khi nào đời sống của người dân nông thôn được cải thiện thì khi đó họ sẽ tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đàng. Như vậy CNH, HĐH NN-NT là điều kiện căn bản đề nâng cao uy tín của Đảng và chính phủ trong nhân dân, là sự đảm bảo cho quá trình xích lại gần nhau giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nhân và nông dân.
Mặt khác, sự nghèo đói cùng với ý thức thấp kém của người dân trong bảo vệ môi trường đã làm tài nguyên thiên nhiên bị khai thác một cách bừa bãi, không chỉ làm cho nguồn tài nguyên chóng cạn kiệt , mà còn gây hậu quả nghiêm trọng về môi trường. Khi dân số tăng lên, diện tích canh tác bình quân đầu người bị giảm xuống, để khắc phục tình trạng nhu cầu vượt quá khả năng của tài nguyên và môi trường sẵn có, người ta buộc phải sử dụng các loại phân hóa học, thêm canh tăng vụ để tăng sản lượng, thì hệ quả tất yếu của quá trình đó là sự suy thoái nặng nề của đất đai, là sự ô nhiễm không khí và nguồn nước.
Những vấn đề trên đặt ra yêu cầu là phải trang bị cho nông nghiệp, nông thôn không chỉ các phương tiện sản xuất hiện đại để tăng năng suất cây trồng, vật nuôi mà còn phải trang bị cho nông dân cả tư duy công nghiệp, phương pháp công nghiệp, tác phong công nghiệp và ý thức tiết kiện tài nguyên, bảo vệ môi trường. Chỉ đạt được những điều đó khi có một nền nông nghiệp phát triển hiện đại, một nông thôn phát triển ngày càng văn minh, giàu đẹp và những người nông dân ngày càng được trí thức hóa.
Ngày nay, vai trò quan trọng của nông thôn đối với sự ổn định chính trị – xã hội đã được thừa nhận. Không riêng gì Việt Nam và các nước đang phát triển khác, mà ngay cả ở những nước công nghiệp phát triển và các nước mới công nghiệp hóa vẫn rất chú trọng hóa đến khu vực nông nghiệp, nông thôn. Các học giả Đài Loan cho rằng: “Vấn đề nông nghiệp và nông thôn bao gồm các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục cho nên nó vô cùng quan trọng và phức tạp. Trong tương lai tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân sẽ ngày càng thu nhỏ nhưng nó vẫn là lực lượng chủ yếu quyết định sự ổn định của nền kinh tế, xã hội và là yếu tố quan trọng để đảm bảo môi sinh, cân bằng sinh thái.”
Thứ năm, xuất phát từ yêu cầu đổi mới công nghệ của nông nghiệp và nông thôn.
Nông nghiệp nông thôn là khu vực kinh tế-xã hội có liên quan trực tiếp đến việc giải quyết những vấn đề cơ bản nhất của đại đa số dân cư. Nhưng nếu nông nghiệp và nông thôn lại nằm trong tình trạng phát triển thấp kém thì không thể đảm trách được vai trò quan trọng đó, trong khi chúng ta vẫn đang phải dựa vào nông nghiệp trong nhiều năm tới nữa. Điều đó nói lên rằng, vấn đề phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn vẫn sẽ là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và nhà nước ta.
Nền nông nghiệp lạc hậu thì năng suất và sản lượng thấp, không đủ sức đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về nông sản thực phẩm của xã hội, thậm chí cho chính bản thân nông thôn. Điều đó đòi hỏi nông nghiệp phải trpr thành một nền nông nghiệp phát triển toàn diện, hiện đại và nông thôn phải trở thành một nông thôn giàu có, văn minh. Vậy nhưng, bản thân nông nghiệp và nông thôn lại không thể tự mình tạo ra quá trình đó, không thể tự đổi mới cơ sở vật chất – kỹ thuật và công nghệ để trở thành nền nông nghiệp hiện đại; cũng không có khả năng tạo ra mức tăng trưởng nhanh để tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động…
Những bất cập đó cho thấy, lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn không thể độc lập thực hiện CNH, HĐH bản thân nó, mà đòi hỏi phải có sự tác động của công nghiệp và đô thị. Công nghiệp và đô thị phải tác động, giúp đỡ nông nghiệp và nông thôn trong việc trang bị máy móc hiện đại nhằm thay thế việc sử dụng sức lao động thủ công là chính trong nông nghiệp, nông thôn hiện nay sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại để đổi mới sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong tất cả các quá trình. Nói cách khác, phải CNH, HĐH NN-NT thì mới phát huy vai trò mạnh mẽ của NN-NT trong việc tạo cơ sở cho sự phát triển công nghiệp, dịch vụ, tạo nguồn vốn tích lũy cho nền kinh tế.
2.2 Xuất phát từ tiềm năng , lợi thế của đất nước hiện nay.
Việt Nam là một nước nông nghiệp. Tiềm năng và lợi thế của Việt Nam cũng là tiềm năng về phát triển nông nghiệp, bao gồm: tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên mặt nước, và yếu tố con người. Đây vừa là điều kiện, vừa là mục đích của CNH, HĐH NN-NT hiện nay. Việc tiến hành CNH, HĐH NN-NT là nhằm khai thác triệt để và phát huy các tiềm năng này, nhưng mặt khác CNH, HĐH NN-NT hiện tại cũng chỉ có thể dựa chủ yếu vào những tiềm năng đó.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú của Việt Nam cho phép phát triển một nền nông nghiệp đa dạng. diện tích đất nông nghiệp nước ta chiếm 39,2% diện tích tự nhiên, trong đó đất màu mỡ chiếm tỷ lệ tương đối cao (chủ yếu tập trung ở các tỉnh vùng đồng bằng song Hồng, đồng bằng song Cửu Long và một số tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ). Đây là điều kiện để phát triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, hiện đại. Hiện tại quỹ đất chưa sử dụng còn nhiều, chiếm 11.38% diện tích tự nhiên, trong đó có khoảng 3 triệu ha đất có khả năng nông nghiệp (1 triệu ha có thể sử dụng ngay). Đây là nguồn lực quan trọng để tăng diện tích cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm, hoặc khoanh nuôi trồng rừng mới theo hình thức kinh tế trang trại , nhằm tăng sản lượng và giá trị nông nghiệp. Tài nguyên rừng Việt Nam khá phong phú , trong đó diện tích rừng sản xuất chiếm đến 53%, được phân bố chủ yếu ở Tây Nguyên, các tỉnh miền núi trung du Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung. Rừng Việt Nam không chỉ cung cấp gỗ, tre, nứa… mà còn nhiều loại động vật quý và khoáng sản. Đây là nguồn cung cấp hàng lâm sản xuất khẩu quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài. Ngoài ra, Việt Nam còn có hơn 3.200km bờ biển với hệ sinh vật biển đa dạng và phong phú, với hơn 1700 loài cá biển, cung cấp sản lượng bình quân 1 triệu tấn/năm. Sau cá là tôm, với sản lượng khai thác khoảng 5 vạn tấn/năm, cùng nhiều hải sản quý khác nhau như mực, vẹm, sò, bào ngư, hải sâm, đồi mồi, trai ngọc… Có thể nói, nguồn lợi thủy sản của Việt Nam rất lớn và hiện đang là nguồn hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta, với kim ngạch đạt gần 2 tỷ USD/năm.
Như vậy các điều kiện trên đã tạo lợi thế cho Việt Nam phát triển nền kinh tế tổng hợp nông nghiệp, lâm nghiệp , thủy sản, công nghiệp, du lịch, thương mại và dịch vụ, tạo nguồn thu lớn cho nền kinh tế.
Việt Nam còn có một lực lượng lao động nông thôn khá dồi dào, với trình độ học vấn tương đối cao (96,26% người lớn biết chữ, 34,11% tốt nghiệp tiểu học, 31,31% tốt nghiệp trung học cơ sở, 11,82% tót nghiệp trung học phổ thông – năm 2002). Đó là điều kiện quan trọng để người lao động tiếp thu và ứng dụng những thành tựu mới của khoa học-công nghệ thế giới, đẩy nhanh CNH, HĐH NN-NT. Đồng thời việc thực hiện CNH, HĐH NN-NT, đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn lại sẽ thu hute và sử dụng một cách có hiệu quả nhất đối với lực lượng lao động tiềm tàng này.
Như vậy, việc xác định lựa chọn chiến lược CNH, HĐH bắt đầu từ nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với quy luật phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam, và cũng phù hợp với quy luật phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện đại. Phải CNH, HĐH NN-Nt thì mới vực dậy được cả khu vự nông thôn, và nhờ đó đẩy mạnh phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Việc Đảng ta đặt nhiệm vụ CHN, HĐH NN-NT lên hàng đầu trong những năm trước mắt là vừa hợp với quy luật, vừa hợp với yêu cầu của thực tiễn nền kinh tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: “Nếu muốn CNH gấp thì là chủ quan. Cho nên, trong kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp. Ta cho nông nghiệp là quan trọng, ưu tiên, rồi đến thủ công nghiệp, sau mới đến công nghiệp nặng”. Theo Người, đó là cách để “đi bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy”.
Kết luận.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCông nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn hiện nay.doc