Chính sách, pháp luật về công tác xã hội trong lĩnh vực tư pháp

Chính sách, pháp luật về công tác xã hội trong lĩnh vực tư pháp

(ĐCSVN) – Công tác xã hội trong lĩnh vực tư pháp có một số điểm khác biệt quan trọng so với các lĩnh vực khác ở chỗ lĩnh vực này có cả vai trò trợ giúp và vai trò thực thi.

leftcenterrightdel

   TS. Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng, Vụ Pháp luật Hình sự – Hành chính, Bộ Tư pháp trình bày tham luận “Thực trạng chính sách, pháp luật công tác xã hội trong lĩnh vực Tư pháp”.

I. Ý nghĩa và vai trò của công tác xã hội trong lĩnh vực Tư pháp:

Hiệp hội Quốc gia các nhân viên xã hội Mỹ (NASW – 1970) đưa ra định nghĩa về công tác xã hội. Theo đó: “Công tác xã hội là một hoạt động mang tính chuyên môn được sử dụng để giúp đỡ các cá nhân, nhóm hay cộng đồng tăng cường hoặc khôi phục năng lực thực hiện những chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu ấy”[1].

Theo giải thích từ ngữ tại Thông tư số 01/2017/TT-BLĐTBXH ngày 02/02/2017 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành quy định về tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp đối với người làm công tác xã hội thì “Nghề công tác xã hội là những hoạt động chuyên nghiệp nhằm giải quyết các vấn đề của cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội; góp phần bảo đảm thực hiện quyền con người, công bằng, tiến bộ xã hội và hạnh phúc của nhân dân”. Người làm công tác xã hội bao gồm công chức, viên chức, người lao động và cộng tác viên công tác xã hội làm việc trong các loại hình cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội và tại cộng đồng, có làm việc trực tiếp với đối tượng trong lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục, tư pháp, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và các lĩnh vực liên quan khác.

Nói tới lĩnh vực Tư pháp, có thể hiểu là hoạt động của các cơ quan nhà nước liên quan trực tiếp đến hoạt động xét xử của tòa án như bổ trợ tư pháp, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Như vậy, công tác xã hội trong lĩnh vực Tư pháp có thể hiểu là những hoạt động chuyên nghiệp nhằm giải quyết các vấn đề của cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội trong các hoạt động thuộc lĩnh vực Tư pháp như: Bổ trợ tư pháp, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, góp phần bảo đảm thực hiện quyền con người, công bằng, tiến bộ xã hội. Xét về bản chất, công tác xã hội trong lĩnh vực Tư pháp là những hoạt động nhằm hỗ trợ, giúp đỡ những người vi phạm pháp luật, người phạm tội, người bị hại, người bị kết án, người trong quá trình chấp hành hình phạt và đã chấp hành xong hình phạt; người cần cấp dưỡng trong các vụ việc ly hôn; người đòi trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn trong các vụ việc về lao động, việc làm… có hoàn cảnh khó khăn, những người yếu thế (người cao tuổi, người khuyết tật, người dưới 18 tuổi, người có HIV, người không nơi nương tựa…) có liên quan đến hệ thống Tư pháp được sớm tiếp cận với hệ thống Tư pháp công bằng, minh bạch, bình đẳng, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

Công tác xã hội trong lĩnh vực Tư pháp có một số điểm khác biệt quan trọng so với các lĩnh vực khác ở chỗ lĩnh vực này có cả vai trò trợ giúp và vai trò thực thi. Vai trò hỗ trợ chính là việc cung cấp các dịch vụ trị liệu và công tác xã hội cá nhân theo mục tiêu nhằm hỗ trợ đối tượng vi phạm pháp luật và gia đình của họ giải quyết các vấn đề góp phần dẫn đến hành vi vi phạm của họ, hỗ trợ họ trên con đường từ bỏ hành vi vi phạm. Vai trò thực thi liên quan đến việc thi hành quyết định của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền khác khi người vi phạm pháp luật được áp dụng các biện pháp hoặc hình phạt tại cộng đồng. Như vậy, có thể thấy, công tác xã hội có ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện một số vấn đề sau:

– Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cá nhân, gia đình và cộng đồng để giải quyết các vấn đề về tâm lý – xã hội bao gồm: Tham vấn, tư vấn, trị liệu các rối nhiễu tâm lý, cảm xúc, hành vi; cải thiện các mối quan hệ giữa các cá nhân và với xã hội.

– Kết nối con người với các nguồn lực và hệ thống các dịch vụ xã hội, cũng như việc thúc đẩy các tổ chức xã hội cung cấp dịch vụ và nguồn lực cho con người hoạt động có hiệu quả và mang tính nhân văn.

– Thúc đẩy thực hiện và vận động chính sách hỗ trợ các nhóm yếu thế đẩy mạnh an sinh và công bằng xã hội;

– Tổ chức nghiên cứu các vấn đề xã hội nhằm cải thiện khung pháp lý và tăng cường dịch vụ đáp ứng phù hợp cho các nhóm đối tượng.

– Giáo dục cộng đồng nâng cao nhận thức và năng lực về giải quyết các vấn đề xã hội.

Nghiên cứu đã chứng minh một cách rõ ràng rằng, các dịch vụ công tác xã hội hiệu quả có liên quan đến tỷ lệ tái phạm thấp hơn. Các kỹ năng và hoạt động công tác xã hội như: Xây dựng mối quan hệ chân thành và hiệu quả với người vi phạm pháp luật, đặc biệt là người chưa thành niên dưới sự giám sát của gia đình họ sẽ giúp họ giải quyết các vấn đề thực tế có ảnh hưởng đến hành vi vi phạm của mình; củng cố mối quan hệ trong gia đình, cộng đồng và thiết lập mối quan hệ bạn bè với những người chưa thành niên lành mạnh khác; cũng như kết nối với các dịch vụ xã hội có liên quan; tất cả những yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ với tỷ lệ tái phạm thấp hơn so với những người vi phạm không nhận được các dịch vụ hỗ trợ đó[2].

II. Thực trạng quy định pháp luật về công tác xã hội trong lĩnh vực Tư pháp:

Nghề công tác xã hội (CTXH) đã chính thức được chính phủ công nhận theo Quyết định số 32/QĐ-TTg ngày 25/3/ 2010 của Thủ tướng Chính phủ về về phê duyệt Đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010-2020 (Quyết định số 32/QĐ-TTg) và tiếp đó là Quyết định số 112/QĐ-TTg ngày 22/1/2021 Ban hành Chương trình phát triển CTXH giai đoạn 2021-2030. Mục tiêu chung của Đề án này là phát triển nghề CTXH như một nghề tại các ngành, các cấp phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế -xã hội của đất nước theo từng giai đoạn; nâng cao nhận thức của xã hội về nghề CTXH; phát triển lực lượng lao động xã hội đầy đủ cả về số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu của hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội ở các mức độ khác nhau nhằm xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội hiện đại. Theo đó, Chương trình phát triển Công tác xã hội 2021-2030 tập trung vào 8 nhiệm vụ chính, bao gồm:

1. Xây dựng và hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về CTXH, bao gồm phát triển công tác xã hội và dịch vụ công tác xã hội như nghiên cứu quy định rõ vai trò, nhiệm vụ, quy trình cung cấp dịch vụ CTXH trong các lĩnh vực, trong đó đề cập đến tư pháp, trại giam, trường giáo dưỡng, hoàn thiện mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức công tác xã hội, hoàn thiện tiêu chuẩn nghiệp vụ cán bộ, viên chức, nhân viên CTXH; đổi mới cơ chế, chính sách, phương pháp vận hành các cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH.

2. Phát triển mạng lưới cung cấp dịch vụ CTXH, trong đó có thực hiện quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH; Hỗ trợ đầu tư nâng cấp, cải tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật và trang thiết bị cho tối thiểu 10 cơ sở đạt tiêu chuẩn quy định; Hỗ trợ các mô hình cung cấp dịch vụ CTXH tại cơ sở trợ giúp xã hội (bao gồm cả trại giam, trường giáo dưỡng, hệ thống tư pháp);

3. Rà soát, sắp xếp phân công cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên, cộng tác viên làm công tác xã hội tại các trại giam, trường giáo dưỡng, hệ thống tư pháp, các cơ sở giáo dục, bệnh viện và các cơ sở của ngành Lao động, Thương binh và xã hội.

4. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tập huấn kỹ năng cho 90.000 cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên và cộng tác viên CTXH, trong đó có cán bộ làm iệc trong lĩnh vực trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và người chưa thành niên; CTXH trong lĩnh vực Tư pháp.

5. Đổi mới, hoàn thiện chương trình, nội dung đào tạo và giáo dục nghề CTXH các trình độ và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ngành CTXH.

6. Nghiên cứu, đánh giá kết quả và đề xuất giải pháp, cơ chế, chính sách phát triển CTXH đặc biệt trong các lĩnh vực bảo trợ xã hội, cai nghiện ma tuý, y tế, giáo dục, tư pháp, lao động, thương binh và xã hội

7. Tuyên truyền, thông tin nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân về CTXH.

8. Tăng cường hợp tác quốc tế, trao đổi, nghiên cứu, khảo sát mô hình cung cấp dịch vụ CTXH của các nước trong khu vực và thế giới để thúc đẩy phát triển CTXH.

Như vậy, sau 10 năm thực hiện Quyết định số 32/QĐ-TTg với các kết quả đã tạo nên những dấu mốc quan trọng về phát triển CTXH, đặc biệt là việc phân công mã nghề cho người hành nghề CTXH, giáo dục CTXH và mở rộng không chỉ trong lĩnh vực phúc lợi xã hội mà còn cả y tế, giáo dục và tư pháp. Hệ thống các dịch vụ CTXH đã được quan tâm xây dựng và phát triển trong những lĩnh vực quan trọng như: Lao động, thương binh và xã hội, y tế, giáo dục và tư pháp.

Đặc biệt chương trình phát triển CTXH giai đoạn 2021-2030 đã có bước tiến quan trọng hơn với việc đề cập và nhấn mạnh đến phát triển CTXH trong lĩnh vực Tư pháp, đặc biệt là lĩnh vực Tư pháp đối với người chưa thành niên.

Pháp luật về CTXH trong lĩnh vực Tư pháp, đặc biệt là lĩnh vực Tư pháp người chưa thành niên:-

Trong lĩnh vực Tư pháp hiện nay chưa có văn bản pháp luật quy định trực tiếp, cụ thể về nghề công tác xã hội hay người làm công tác xã hội, tuy nhiên, đã có một số quy định mang tính cơ sở cho nghề công tác xã hội, người làm công tác xã hội. Các quy định này tồn tại dưới dạng các quy định về vai trò, chức năng, nhiệm vụ hỗ trợ, giúp đỡ người có hành vi vi phạm pháp luật, người phạm tội người bị hại, người bị kết án, người chấp hành hình phạt. Tại các văn bản pháp luật như Luật Trẻ em, các luật liên quan như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự,… và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật này đã có những quy định tại cơ sở cho việc hình thành các dịch vụ CTXH trong lĩnh vực Tư pháp, trong đó có các quy định liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, bảo vệ người chưa thành niên (NCTN) cũng như sự tham gia của các cơ quan, tổ chức dân sự trong quá trình tố tụng hình sự đối với NCTN. Đặc biệt là Luật Trẻ em và Nghị định số 56/2017/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Trẻ em lần đầu tiên đã có những quy định cụ thể về vai trò của CTXH trong quá trình tư pháp, xử lý trẻ em vi phạm pháp luật, bảo vệ trẻ em là nạn nhân của các hành vi vi phạm. Cụ thể như sau:

– Luật Trẻ em năm 2016:

Luật Trẻ em năm 2016 với tính chất là đạo luật trung tâm về quyền trẻ em ghi nhận trẻ em (người dưới 16 tuổi) là người phạm tội, vi phạm pháp luật hay nạn nhân là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và cần có cơ chế đặc biệt để bảo vệ, hỗ trợ, giúp đỡ các em trong suốt quá trình tố tụng. Theo đó, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (bao gồm trẻ em là nạn nhân bị xâm hại; trẻ em bị mua bán; trẻ em vi phạm pháp luật trong quá trình xử lý vi phạm hành chính hoặc tố tụng hình sự; thi hành án các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, quản lý tại gia đình hoặc thi hành án hình sự, các biện pháp thay thế xử lý hình sự trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự) được hỗ trợ tư vấn, trị liệu tâm lý và các dịch vụ bảo vệ trẻ em khác theo quy định. Luật yêu cầu việc bảo vệ trẻ em được thực hiện theo ba cấp độ: Phòng ngừa, hỗ trợ và can thiệp và việc bảo vệ trẻ em phải bảo đảm tính hệ thống, tính liên tục, có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cấp, các ngành trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật và cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em (Điều 47). Trên cơ sở đó, Luật và Nghị định số 56/2017/NĐ-CP quy định cụ thể các hoạt động hỗ trợ can thiệp đối với trường hợp trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bạo lực, bóc lột, bỏ rơi và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, cụ thể hơn là hoạt động quản lý trường hợp với những hướng dẫn cơ bản trong can thiệp, hỗ trợ các nhóm trẻ em này. 

Theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật, cơ quan lao động – thương binh và xã hội, cơ quan công an các cấp và Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố giác; phối hợp xác minh, đánh giá, điều tra về hành vi xâm hại, tình trạng mất an toàn hoặc gây tổn hại, mức độ nguy cơ gây tổn hại đối với trẻ em. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em cư trú chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ trẻ em để tổ chức xây dựng, phê duyệt, triển khai kế hoạch hỗ trợ, can thiệp; bố trí nguồn lực, phân công cá nhân, tổ chức thực hiện, phối hợp thực hiện và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch (khoản 2 Điều 52).

Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, Điều 72 của Luật xác định rõ trách nhiệm của người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã trong quá trình tố tụng: i) Tư vấn, cung cấp thông tin, hướng dẫn trẻ em và cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em tiếp cận dịch vụ bảo vệ trẻ em, trợ giúp pháp lý, xã hội, y tế, giáo dục và các nguồn trợ giúp khác; ii) Tìm hiểu, cung cấp thông tin về hoàn cảnh cá nhân và gia đình của trẻ em cho người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính để áp dụng các biện pháp xử lý, giáo dục và ra quyết định khác phù hợp; iii) Tham gia vào quá trình tố tụng có liên quan đến trẻ em theo quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đồng thời, Điều 53 Luật Trẻ em quy định cụ thể trách nhiệm của người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã bao gồm 06 nhóm nhiệm vụ: (1) Đánh giá nguy cơ và xác định các nhu cầu của trẻ em cần được bảo vệ; (2) Tham gia quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch hỗ trợ, can thiệp đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi; (3) Tư vấn, cung cấp thông tin, hướng dẫn trẻ em và cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em tiếp cận dịch vụ bảo vệ trẻ em, trợ giúp xã hội, y tế, giáo dục, pháp lý và các nguồn trợ giúp khác; (4) Tư vấn kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em cho trẻ em, cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em và các thành viên trong gia đình, cộng đồng; (5) Kiến nghị biện pháp chăm sóc thay thế và theo dõi quá trình thực hiện và (6) Hỗ trợ trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em là người bị hại, người làm chứng trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng theo quy định tại Điều 72 của Luật.

Bên cạnh đó, Luật cũng quy định cụ thể các vấn đề về cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em (các loại hình cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; điều kiện thành lập, đăng ký thành lập; thẩm quyền thành lập, cấp đăng ký hoạt động đối với cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em;…).

– Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính:

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính chưa quy định cụ thể vai trò của nghề CTXH trong quá trình xử lý người vi phạm hành chính. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, thực hiện biện pháp thay thế xử lý hành chính, biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, hoặc các biện pháp xử lý hành chính khác đối với NCTN đã có một số quy định như sau:

+ Đối với NCTN bị áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình, theo quy định của Luật XLVPHC và các văn bản liên quan, chủ thể chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý NCTN bị áp dụng biện pháp là gia đình, tổ chức hoặc cá nhân nơi NCTN cư trú được phân công phối hợp với gia đình để quản lý NCTN và giám sát thực hiện. Trong quá trình thi hành biện pháp, NCTN được đi học hoặc tham gia các chương trình học tập hoặc dạy nghề khác; tham gia các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống tại cộng đồng.

+ Đối với NCTN vi phạm hành chính bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, theo quy định của Luật XLVPHC và Nghị định 111/2013/NĐ-CP, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp này được thực hiện theo quy trình 05 bước, trong đó công an xã chịu trách nhiệm chính. Trong quá trình này, cán bộ xã hội là một trong những người phối hợp cùng thực hiện (như tham gia ý kiến của cán bộ phụ trách công tác trẻ em khi lập hồ sơ; tham gia vào quá trình quyết định áp dụng và thi hành biện pháp). Trong một số trường hợp, nếu NCTN không có nơi cư trú ổn định thì giao cho cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở trợ giúp trẻ em để quản lý, giáo dục  NCTN được áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 98 Luật XLVPHC).

+ Đối với NCTN vi phạm hành chính bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, theo quy định của Luật XLVPHC và Pháp lệnh số 09/2014/UNTVQH13 về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, khi áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, để thẩm phán có những thông tin cần thiết về nhân thân, hoàn cảnh, quan hệ xã hội của NCTN trong quá trình ra quyết định, cần phải thu thập ý kiến của nhà trường nơi NCTN học tập hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, và sự tham gia của những người này, đại diện cơ quan lao động – thương binh và xã hội cấp huyện, người giám định, người phiên dịch, chuyên gia y tế, giáo dục, tâm lý, tại phiên họp quyết định biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng khi xét thấy cần thiết.

– Pháp luật hình sự và tố tụng hình sự:

Pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, tuy chưa có các quy định cụ thể và trực tiếp liên quan đến vai trò và nhiệm vụ của nghề CTXH nhưng cũng có những quy định làm tiền đề cho sự phát triển nghề này.

+ BLTTHS năm 2015 đã có quy định về trách nhiệm của các cá nhân tham gia tố tụng trong việc hỗ trợ, giúp đỡ người phạm tội và người bị hại; bảo đảm sự tham gia của người đại diện, người bào chữa trong quá trình tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đối với NCTN phạm tội, Bộ luật cũng quy định đại diện của gia đình NCTN, nhà trường, Đoàn thanh niên, cơ quan, tổ chức khác có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng; người đại diện của NCTN được tham gia việc lấy lời khai, hỏi cung NCTN; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo; đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu liên quan đến việc buộc tội người dưới 18 tuổi trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra.

 + BLHS năm 2015 tại khoản 2 Điều 91 quy định người dưới 18 tuổi phạm tội với nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả thì có thể được miễn trách niệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục tại cộng đồng là khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Các biện pháp này được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm giúp họ nhận thức rõ hành vi phạm thội, hậu quả gây ra đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ.

Để thực hiện các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi khi được miễn trách nhiệm hình sự, Nghị định số 37/2018/NĐ-CP ngày 10/3/2018 quy định chi tiết thi hành các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự đã bước đầu quy định một cách rõ ràng, cụ thể về quy trình giám sát, giáo dục tại cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật, trong đó có xác định điều kiện, vai trò, trách nhiệm, chế độ của người trực tiếp giám sát, giáo dục.

Điều 6 Nghị định này quy định, Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thi hành các biện pháp giám sát, giáo dục. Căn cứ vào tình hình vi phạm pháp luật của người chưa thành niên, năng lực cán bộ và các điều kiện khác ở địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân cấp xã quyết định danh sách người trực tiếp giám sát, giáo dục gồm từ 3 đến 5 người được lựa chọn trong số các cá nhân gồm: Cán bộ, chiến sỹ công an, công an viên, công chức văn hóa – xã hội, công chức tư pháp – hộ tịch, người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã, cộng tác viên công tác xã hội cấp xã, đại diện Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên hoặc người có uy tín trong cộng đồng dân cư có đạo đức tốt. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm tổ chức tập huấn cho người trực tiếp giám sát, giáo dục hoặc cử người trực tiếp giám sát, giáo dục tham gia các Chương trình tập huấn thích hợp do cấp huyện hoặc cấp tỉnh tổ chức để thực hiện nhiệm vụ.

Người trực tiếp giám sát, giáo dục phải là người có tư cách đạo đức tốt, có kiến thức, kỹ năng về công tác xã hội, công tác trẻ em hoặc kiến thức cần thiết về tâm sinh lý trẻ em hoặc được đào tạo, tập huấn về tư pháp đối với người chưa thành niên, được Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp xã quyết định giao nhiệm vụ trực tiếp thực hiện việc giám sát, giáo dục (khoản 3 Điều 2).

Nghị định cũng quy định rõ quy trình giám sát, giáo dục, trong đó xác định cụ thể vai trò, trách nhiệm của người trực tiếp giám sát, giáo dục từ xây dựng Báo cáo thu thập thông tin, xác định các yếu tố nguy cơ, nguyên nhân và điều kiện vi phạm pháp luật của người được giám sát, giáo dục; xây dựng và thực hiện kế hoạch giám sát, giáo dục;…     

+ Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi (TTLT số 06/2018) yêu cầu Cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Bảo vệ quyền trẻ em, cơ quan, tổ chức có liên quan nơi bắt giữ, nơi xảy ra tội phạm hoặc nơi có thẩm quyền điều tra cử người đại diện cho người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi trong trường hợp họ không có nơi cư trú rõ ràng, không xác định được lý lịch hoặc có người đại diện nhưng họ cố ý vắng mặt hoặc từ chối tham gia tố tụng.

– Luật Thi hành án hình sự các văn bản về tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù:

+ Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Thi hành án hình sự năm 2019, việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo, tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết án được giao cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban Nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để thực hiện việc giám sát, giáo dục.

+ Nghị định số 49/2020/NĐ-CP ngày 17/4/2020 quy định chi tiết Luật Thi hành án hình sự về tái hòa nhập cộng đồng có quy định các biện pháp chuẩn bị tái hòa  nhập cộng đồng cho phạm nhân như tư vấn tâm lý, hỗ trợ các thủ tục pháp lý (Điều 5); định hướng nghề nghiệp, nâng cao khả năng tìm kiếm việc làm cho phạm nhân (Điều 6). Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù, như: Hỗ trợ về tâm lý, về các thủ tục pháp lý (Điều 10); đào tạo nghề nghiệp, tạo việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù (Điều 11). Nghị định cũng quy định cụ thể trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp; của cơ quan, tổ chức, cá nhân, gia đình trong việc giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng.

 – Các luật khác liên quan đến bảo vệ nạn nhân, nhân chứng của tội phạm:

+ Luật Phòng, chống mua bán người có một số quy định liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân bị mua bán. Theo đó, nạn nhân bị mua bán thì được hưởng các chế độ hỗ trợ về nhu cầu thiết yếu, chi phí đi lại, chăm sóc y tế, hỗ trợ tâm lý, trợ giúp pháp lý, hỗ trợ học văn hóa, học nghề và trợ cập khó khăn ban đầu, hỗ trợ vay vốn.

+ Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định nạn nhân bạo lực gia đình được quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình; yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này; được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật; được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định của Luật này.

Luật cũng quy định Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động tư vấn về gia đình ở cơ sở cho các thành viên trong cộng đồng dân cư để phòng ngừa bạo lực gia đình, bao gồm: Cung cấp thông tin, kiến thức, pháp luật về hôn nhân, gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình; hướng dẫn kỹ năng ứng xử trong gia đình; kỹ năng ứng xử khi có mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình (Điều 16). Nạn nhân bạo lực gia đình được tư vấn về chăm sóc sức khoẻ, ứng xử trong gia đình, pháp luật và tâm lý để giải quyết tình trạng bạo lực gia đình và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình, cá nhân hoặc tổ chức trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm thực hiện việc tư vấn phù hợp cho nạn nhân bạo lực gia đình. Luật cũng quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, ngành, cơ quan trong việc tổ chức thực hiện các biện pháp hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân bị bạo lực gia đình; trách nhiệm phối hợp của lực lượng công an, kiểm sát, tòa án nhằm cung cấp các biện pháp hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân.

– Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự, người chưa thành niên có người giám hộ trong một số trường hợp như: Không còn cha mẹ hoặc không xác định được cha mẹ, cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự…, như vậy, nhân viên CTXH có thể tham gia với tư cách đại diện để bảo vệ quyền lợi của người được đại diện; từ đó góp phần giải quyết các vấn đề nảy sinh trong xã hội. Bộ luật Tố tụng Dân sự cũng có những quy định liên quan đến phát triển nghề CTXH, ví dụ: Điều 115 quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời liên quan tới việc giao người chưa thành niên cho cá nhân, tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục (áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có người chưa thành niên chưa có người giám hộ).

Như vậy, với những quy định liên quan đến hỗ trợ cho trẻ em trong quá trình tố tụng, tuy nhiên, các quy định này nằm rải rác ở các văn bản pháp luật. Người làm công tác bảo vệ trẻ em chỉ được hỗ trợ cho trẻ em là nạn nhân trong quá trình tố tụng nếu được cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền yêu cầu hoặc đề nghị hỗ trợ. Ngoài ra, việc hỗ trợ này chỉ đối với những trẻ em hoặc người dưới 18 tuổi không có nơi cư trú rõ ràng, không xác định được lý lịch hoặc có người đại diện nhưng họ cố ý vắng mặt hoặc từ chối tham gia tố tụng. Việc hỗ trợ trong và sau tố tụng còn nhiều bất cập do pháp luật chưa quy định cụ thể về công tác xã hội trong lĩnh vực tư pháp.

III. Một số bất cập, hạn chế về công tác xã hội trong lĩnh vực Tư pháp tại Việt Nam:

1. Về cơ sở pháp lý:

Hệ thống luật pháp và chính sách của Việt Nam đã có những quy định trong trợ giúp đối tượng là người vi phạm pháp luật và người là nạn nhân của xâm hại, bạo lực, bóc lột, mua bán tại các Luật, nghị định, đặc biệt đối tượng là người chưa thành niên. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn chưa có quy định rõ ràng, cụ thể về CTXH tham gia trong hệ thống tư pháp một cách có hệ thống như: Chưa có quy định về vị trí, vai trò, chức năng, trách nhiệm và quyền hạn của người làm công tác xã hội dẫn đến những hạn chế trong phát triển dịch vụ chuyên nghiệp cũng như đảm bảo quá trình hỗ đối tượng có nhu cầu. Bên cạnh đó, các quy định về việc hỗ trợ, trợ giúp các đối tượng trong hệ thống tư pháp còn rải rác, manh mún ở nhiều văn bản  quy phạm pháp luật khác nhau. Điều này cũng làm ảnh hưởng đến việc phát triển các quy định phát triển dịch vụ CTXH chuyên nghiệp trong lĩnh vực Tư pháp và cả các lĩnh vực khác.

2. Về năng lực đội ngũ người làm CTXH:

Hiện nay, đội ngũ người làm CTXH và cung cấp các dịch vụ trong lĩnh vực tư pháp còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Có một số ít các hoạt động hỗ trợ trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em là nạn nhân, nhân chứng được thực hiện dưới vai trò hỗ trợ của cán bộ bảo vệ trẻ em hoặc kiêm nhiệm. Bên cạnh đó năng lực chuyên môn cũng là thách thức do đội ngũ cán bộ này chưa được đào tạo bài bản và chuyên sâu về lĩnh vực CTXH trong tư pháp.

3. Về đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn công tác xã hội:

Hiện chưa có chương trình đào tạo cả ngắn hạn và dài hạn mang tính hệ thống và chuyên sâu về CTXH trong lĩnh vực Tư pháp. Cán bộ làm việc trong lĩnh vực này được đào tạo chung về CTXH và rất ít qua các khoá tập huấn về quản lý trường hợp với trẻ em vi phạm pháp luật.

4. Về vị trí việc làm, cơ chế tuyển dụng:

Hiện chưa có vị trí việc làm được quy định trong hệ thống pháp luật của nhân viên CTXH trong hệ thống tư pháp hỗ trợ người vi phạm pháp luật. Mặc dù vị trí của người làm CTXH cả chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp đã được xác định trong một số lĩnh vực như: Lao động, thương binh và xã hội, bệnh viện, trường học. Chính vì vậy, hiện chưa có cơ chế tuyển dụng hay tạo vị trí việc làm trong các quy định của pháp luật và các cơ quan tư pháp.

5. Về mô hình dịch vụ CTXH trong lĩnh vực Tư pháp:

Các dịch vụ CTXH trong hỗ trợ đối tượng là người vi phạm pháp luật và người là nạn nhân của các hành vi vi phạm, đặc biệt là người chưa thành niên mới chỉ dừng ở mức độ các dịch vụ hỗ trợ được cả đội ngũ chuyên nghiệp được đào tạo và không chuyên (cộng tác viên công tác xã hội/bảo vệ trẻ em tại cộng đồng) thực hiện, nên chưa thực sự đảm bảo tính chuyên nghiệp. Chính vì vậy, chất lượng và hiệu quả can thiệp của CTXH trong lĩnh vực Tư pháp còn rất hạn chế và cần có các quy định về pháp lý, chính sách và cơ chế phát triển dịch vụ CTXH trong lĩnh vực này.

IV. Một số đề xuất, kiến nghị để phát triển công tác xã hội trong lĩnh vực Tư pháp:

1. Về luật pháp, chính sách:

Với thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay quy định về việc hỗ trợ, trợ giúp các đối tượng yếu thế trong xã hội thì đã đến lúc cần nghiên cứu để xây dựng một đạo luật riêng về CTXH (Luật Công tác xã hội), trong đó có các quy định về CTXH trong lĩnh vực Tư pháp. Có thể tập trung vào một số vấn đề sau:

– Các dịch vụ CTXH trong lĩnh vực Tư pháp.

– Vai trò, vị trí, chức năng, trách nhiệm của nhân viên CTXH trong việc cung cấp các dịch vụ CTXH chuyên nghiệp trong hệ thống tư pháp.

– Cơ chế tuyển dụng người làm CTXH trong lĩnh vực Tư pháp.

– Yêu cầu năng lực, trình độ chuyên môn cán bộ làm CTXH trong lĩnh vực Tư pháp.

– Quy trình, trình tự triển khai mô hình dịch vụ CTXH chuyên nghiệp trong quá trình can thiệp, hỗ trợ đối tượng là người vi phạm pháp luật, người là nạn nhân, nhân chứng như mô hình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; dịch vụ hỗ trợ, phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng dành cho người vi phạm pháp luật.

– Cơ quan chủ quản và liên quan quản lý nhân lực và dịch vụ CTXH trong lĩnh vực Tư pháp.

2. Về nguồn nhân lực:

– Có kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ làm CTXH trong lĩnh vực Tư pháp.

– Tổ chức tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ bảo đảm tính chuyên nghiệp của các dịch vụ can thiệp.

3. Về đào tạo:

– Xây dựng các chương trình đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực Tư pháp ở các cấp bậc khác nhau (cao đẳng, đại học, thạc sĩ) và các chương trình đào tạo bổ sung kiến thức chuyên sâu ngắn hạn.

– Xây dựng các chương trình nâng cao năng lực ở từng khâu trong quy trình tham gia của cán bộ hỗ trợ, phương pháp hỗ trợ…./.

[1] http://www.hoilhpn.org.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/cong-tac-xa-hoi-la-gi–19313-2.html

[2] Tiến sĩ Maria Sapouna, Catherine Bisset, Anne-Marie Conlong; Điều gì giúp giảm tình trạng tái phạm: Báo cáo phân tích tóm tắt những bằng chứng trong lĩnh vực tư pháp ; Chính phủ Scotland; tháng 11- 2011.

TS. Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng, Vụ Pháp luật Hình sự – Hành chính, Bộ Tư pháp   

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM