Các lý thuyết về việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong doanh nghiệp

Các lý thuyết về việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong doanh nghiệp

Trên thế giới tồn tại khá nhiều quan điểm khác nhau về trách nhiệm xã hội (Corporate Social Responsibility – CSR). Một số người xác định “CSR hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên một mức phù hợp với các quy phạm, giá trị và kỳ vọng xã hội đang phổ biến” (Prakash & Sethi, 1975). Một số người khác hiểu “CSR bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm nhất định” (Carroll, 1979), v.v…

Khái niệm về về trách nhiệm xã hội

 Cho đến nay có hai quan điểm chính về CSR: Một số ủng hộ quan điểm doanh nghiệp chỉ chú tâm vào công việc kinh doanh của họ, không cần quan tâm đến vấn đề khác. Những người mang danh là kinh doanh cần làm sao bảo đảm lĩnh vực hoạt động của mình có hiệu quả, bất chấp các yếu tố khác. Với quan điểm này, trách nhiệm môi trường và xã hội khác thuộc về Nhà nước. Một số khác lại cho rằng ngoài tìm kiếm lợi ích kinh doanh thì doanh nghiệp còn phải có trách nhiệm với mọi thứ xung quanh như môi trường, đóng góp cho người lao động, cổ đông, người tiêu dùng và nhà cung cấp. Lý do là doanh nghiệp không thể tồn tại độc lập, không thể phát triển nếu không có các yếu tố hỗ trợ. Và các yếu tố đã nêu trên đều trực tiếp liên quan đến doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tôn trọng và có chính sách hỗ trợ hợp lý với các yếu tố này. Ở Việt Nam, khái niệm CSR vẫn còn khá mới mẻ và trên thực tế có nhiều doanh nghiệp chưa thực sự hiểu rõ về vấn đề này. Họ thường hiểu thực hiện CSR có nghĩa là làm từ thiện, tham gia các hoạt động nhân đạo. Theo cách hiểu này việc thực hiện CSR mang tính chất tự nguyện.

Thuật  ngữ trách nhiệm xã hội (CSR)  xuất  hiện  chính  thức lần  đầu  tiên  năm  1953  trong  cuốn  sách  Trách nhiệm  xã  hội  của  doanh  nhân (Social Responsibilities of the Businessmen) của tác giả Howard Rothmann Bowen nhằm mục đích tuyên truyền  và  kêu  gọi  người  quản  lý  tài  sản  không làm tổn hại  đến các quyền và lợi ích của người khác, kêu gọi dùng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại do các doanh nghiệp làm tổn hại cho xã hội.  Sau đó là các nghiên cứu của Milton Friedman (1970); Carroll (1999); Kotler and Lee (2008), Fuller & Tian (2006), Garriga & Melé (2004), Jenkins (2006), Lantos (2001), Maignan & Ferrell (2001); Maignan & Ferrell (2005), Thompson, Smith & Hood (2001).

Từ đó đến nay, thuật ngữ này đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một số học giả cho rằng “TNXHDN liên quan  đến những quyết định  và  hành  động  được  thực  hiện  mà  ít  nhất cũng vượt trên những lợi ích kinh tế của doanh nghiệp,  là  những  nguyên  tắc  điều  chỉnh  mối quan  hệ giữa  doanh  nghiệp  và  xã  hội”.  Caroll (1979)[1]  sau  khi  chỉ ra  vai  trò  chủ yếu  của  mọi doanh nghiệp là tạo ra lợi  nhuận bằng cách bán sản  phẩm  và  dịch  vụ cho  xã  hội,  khẳng  định: “TNXHDN bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp, đạo đức và từ thiện đối với các tổchức tại một thời điểm nhất định”. Maignan và Ferrell (2004) cũng đưa ra một khái niệm súc tích về TNXHDN:  “Một doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội khi quyết định và hoạt động của nó nhằm tạo ra và cân bằng các lợi ích khác nhau của những cá nhân và tổ chức liên quan”[2]. Trên  thực  tế,  TNXHDN  là  một  phạm  trù rộng, có  thể  được  hiểu và diễn  đạt  theo  nhiều cách  khác  nhau.  

Từ năm 2003, khái niệm TNXHDN do Nhóm Phát triển Kinh tế tư nhân của Ngân hàng Thế giới đưa ra đã được chấp nhận và sử dụng rộng rãi nhất. Theo đó, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility hay CSR là “Cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc tuân thủ chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng,… theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội”[3]. 

Dù được diễn đạt theo nhiều cách khác nhau song nội hàm phản ánh của TNXHDN về cơ bản đều có điểm chung là bên cạnh những lợi ích phát triển riêng của từng doanh nghiệp  phù hợp với pháp luật hiện hành thì  đều phải gắn kết với lợi ích  phát triển chung của cộng đồng xã hội. 

Nội dung về trách nhiệm xã hội

Nội hàm của TNXHDN bao gồm nhiều khía cạnh liên quan đến ứng xử của doanh  nghiệp đối với các chủ thể và đối tượng có liên quan trong quá trình hoạt động của  doanh  nghiệp,  từ người  sản xuất, tiếp thị, tiêu dùng đến các nhà cung ứng nguyên liệu, vật liệu tại chỗ, từ đội ngũ cán bộ, nhân viên cho đến các cổ đông của doanh nghiệp, trong đó, có cả trách  nhiệm về bảo vệ tài nguyên, môi trường mà thực chất cũng là có trách nhiệm chung với lợi ích cộng  đồng xã hội, bao gồm cả những hoạt động nhân đạo, từ thiện, hoạt động đóng góp cho sựphát triển chung của đất nước. 

Các khía cạnh của trách nhiệm xã hội: Trách nhiệm xã hội bao gồm 4 khía cạnh: kinh tế, pháp lý, đạo đức và lòng bác ái.

(1) Khía cạnh kinh tế

Khía cạnh kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là phải sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà xã hội cần và muốn với một mức giá có thể duy trì doanh nghiệp ấy và làm thỏa mãn nghĩa vụ của doanh nghiệp với các nhà đầu tư; là tìm kiếm nguồn cung ứng lao động, phát hiện những nguồn tài nguyên mới, thúc đẩy tiến bộ công nghệ, phát triển sản phẩm; là phân phối các nguồn sản xuất như hàng hoá và dịch vụ như thế nào trong hệ thống xã hội
Trong khi thực hiện các công việc này, các doanh nghiệp thực sự góp phần vào tăng thêm phúc lợi cho xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Đối với người lao động, khía cạnh kinh tế của doanh nghiệp là tạo công ăn việc làm với mức thù lao xứng đáng cơ hội việc làm như nhau, cơ hội phát triển nghề và chuyên môn, hưởng thù lao tương xứng, hưởng môi trường lao động an toàn, vệ sinh và đảm bảo quyền riêng tư, cá nhân ở nơi làm việc.
Đối với người tiêu  ung, trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp là cung cấp hàng hoá và dịch vụ, trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp còn liên quan đến vấn đề về chất lượng, an toàn sản phẩm, định giá, thông tin về sản phẩm (quảng cáo), phân phối, bán hàng và cạnh tranh.
Khía cạnh kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là cơ sở cho các hoạt động của doanh nghiệp. Phần lớn các nghĩa vụ kinh tế trong kinh doanh đều được thể chế hoá thành các nghĩa vụ pháp lý

 (2) Khía cạnh pháp lý

Khía cạnh pháp lý trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ những quy định về pháp lý chính thức đối với các bên hữu quan. Những điều luật như thế này sẽ điều tiết được cạnh tranh, bảo vệ khách hàng, bảo vệ môi trường, thúc đẩy sự công bằng và an toàn và cung cấp những sáng kiến chống lại những hành vi sai trái. Các nghĩa vụ pháp lý được thể hiện trong luật dân sự và hình sự. Về cơ bản, nghĩa vụ pháp lý bao gồm năm khía cạnh: (1) Điều tiết cạnh tranh; (2) Bảo vệ người tiêu  ung; (3) Bảo vệ môi trường;(4) An toàn và bình đẳng;(5) Khuyến khích phát hiện và ngăn chặn hành vi sai trái.
Thông qua trách nhiệm pháp lý, xã hội buộc các thành viên phải thực thi các hành vi được chấp nhận. Các tổ chức không thể tồn tại lâu dài nếu họ không thực hiện trách nhiệm pháp lý của mình

 (3) Khía cạnh đạo đức

Là những hành vi và hoạt động mà xã hội mong đợi ở doanh nghiệp nhưng không được quy định trong hệ thống luật pháp, không được thể chế hóa thành luật.
Khía cạnh này liên quan tới những gì các công ty quyết định là đúng, công bằng vượt qua cả những yêu cầu pháp lý khắc nghiệt, nó chỉ những hành vi và hoạt động mà các thành viên của tổ chức, cộng đồng và xã hội mong đợi từ phía các doanh nghiệp dù cho chúng không được viết thành luật.
Khía cạnh đạo đức của một doanh nghiệp thường được thể hiện thông qua những nguyên tắc, giá trị đạo đức được tôn trọng trình bày trong bản sứ mệnh và chiến lược của công ty. Thông qua các công bố này, nguyên tắc và giá trị đạo đức trở thành kim chỉ nam cho sự phối hợp hành động của mỗi thành viên trong công ty và với các bên hữu quan.

Trách nhiệm với thị trường và người tiêu dùng. Đây là trách nhiệm đảm bảo sự an toàn đối với các sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất, cung ứng ra. Từ đó, đảm bảo sự an toàn cho người tiêu  ung. Đồng thời, tăng cường ký kết các hợp đồng kinh tế với các đối tác, tăng cường chất lượng, hàng hóa dịch vụ để tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường.

Trách nhiệm về bảo vệ môi trường. Đây là trách nhiệm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của môi trường, là sự cam kết bảo vệ, đồng thời không gây ra các hành động gây hại cho môi trường như xả thải, tàn phá sinh vật…

Trách nhiệm với người lao động. Dù doanh nghiệp có cam kết nhiều đến đâu, thực hiện tốt công tác bên ngoài đến đâu nhưng chính những người lao động làm việc cho doanh nghiệp phải chịu những sự bất công, điều kiện lao động, an toàn lao động hay vấn đề tiền lương không được đảm bảo thì không thể gọi là doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội được. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp phải tăng thêm điều kiện vật chất để cải thiện đời sống người lao động. Cụ thể là tăng thu nhập, nâng cao hơn chất lượng cuộc sống và sức khỏe cho người lao động và gia đình họ; hỗ trợ người lao động thực hiện tốt hơn luật pháp lao động và mở rộng hơn khả năng bảo hiểm y tế, xã hội cho họ…

Trách nhiệm chung với cộng đồng. Có thể hiểu đơn giản là các hoạt động từ thiện vì cộng đồng. 

Trách nhiệm xã hội và việc phát triển bền vững của doanh nghiệp:
Thể hiện tốt đạo đức kinh doanh; Quản lý tốt và giảm thiểu các rủi ro kinh doanh.
Thu hút nhà đầu tư dài hạn và tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn mới; Củng cố quan hệ với nhà cung cấp và các đối tác kinh doanh.
Nâng cao uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp; củng cố vị trí và mở rộng thị phần của doanh nghiệp; Tuân thủ tốt các quy định của pháp luật và các tổ chức kinh tế quốc tế.
Động lực cho nhân viên và thu hút nhân tài cho doanh nghiệp; Cải tiến khoa học, kỹ thuật, gia tăng năng suất, chất lượng
Tiết kiệm chi phí, gia tăng doanh thu trong dài hạn.
Như vậy, có thể thấy, thuật ngữ này đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau và là một phạm trù rộng, có thể được hiểu và diễn đạt theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, dù diễn đạt theo nhiều cách khác nhau song nội hàm phản ánh của TNXH về cơ bản đều có điểm chung là bên cạnh những lợi ích phát triển riêng của từng doanh nghiệp phù hợp với pháp luật hiện hành thì đều phải gắn kết với lợi ích phát triển chung của cộng đồng xã hội. 
Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp là phương án mà các DN thường áp dụng như là một chiến lược nhằm tìm kiếm lợi nhuận dài hạn cho DN, đi cùng với phúc lợi xã hội cũng như bảo vệ môi trường. Trách nhiệm xã hội của DN được thể hiện qua các mặt: (i) Bảo vệ môi trường; (ii) Đóng góp cho cộng đồng xã hội; (iii) Thực hiện tốt trách nhiệm với nhà cung cấp; (iv) Bảo đảm an toàn và lợi ích cho người tiêu  ung; (v) Quan hệ tốt với người lao động; (vi) Bảo đảm lợi ích cho cổ đông và người lao động trong DN.

Nguyễn Thị Hường, Phòng Nông nghiệp & PTNT

TS. Bùi Việt Hưng, Viện Nghiên cứu Châu Âu

* Bài viết được thực hiện dưới sự tài trợ của Viện Nghiên cứu Châu Âu và Quỹ Friedrich Naumann Stiftung für Die Freiheit (FNF), CHLB Đức.
[1] Caroll, A. B., “A Three-dimensional Conceptual Model of Corporate Performance”, Academy of Management 
Review, 4 (4) (1979), 497-505.
[2] Maignan, I. và Ferrell, O.  C., “Corporate Social Responsibility and Marketing”, Journal of the Academy of Marketing Science, 32 (1) (2004), 3-19
[3] Ngân hàng Thế giới, Public Policy for Corporate Social Responsibility (2003)