Tin tức

1. Đặt vấn đề
Để tăng cường đổi mới công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW). Nghị quyết là văn kiện đầu tiên của Đảng chuyên sâu về công tác pháp luật, với mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; đổi mới căn bản công tác xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Nghị quyết số 48-NQ/TW xác định nội dung quan trọng, chủ yếu trong Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, theo đó đặt ra 06 nội dung định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
2. Kết quả xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tinh thần của Nghị Quyết số 48-NQ/TW
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, gắn với những nội dung, mục tiêu và các giải pháp về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam được đề ra trong Nghị quyết cơ bản đã hoàn thành, có thể khái quát kết quả đạt được trên những nội dung sau đây:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng hoàn thiện và phát triển cơ bản cân đối trên mọi lĩnh vực. Trước năm 2005, hệ thống pháp luật chủ yếu được chú trọng xây dựng trong lĩnh vực kinh tế, nhưng đến nay, hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đều có văn bản quy phạm pháp luật ở tầm luật điều chỉnh, cơ bản thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn đường lối, chủ trương của Đảng, không chỉ góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, mà còn bảo đảm xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, chủ động hội nhập quốc tế của đất nước.
Pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị nói chung, của Chính phủ và hệ thống cơ quan hành chính nhà nước nói riêng được xây dựng đầy đủ và không ngừng hoàn thiện, đặc biệt sau khi Quốc hội ban hành Hiến pháp năm 2013. Thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện. Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013. Nguyên tắc kiểm soát quyền lực đã được thể chế hóa, là cơ sở cho việc tiếp tục tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và có những bước tiến mới trong hoạt động. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn. Vai trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao.
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận, đề cao việc thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước, phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong tình hình mới, tạo bước chuyển quan trọng trong nhận thức về tư duy lập hiến, lập pháp theo hướng công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân là trách nhiệm của Nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung, ghi nhận nhiều quyền mới
Pháp luật về dân sự, kinh tế với trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển và phù hợp hơn với luật pháp, thông lệ quốc tế. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành, đáp ứng yêu cầu hội nhập. Chế độ sở hữu ngày càng hoàn thiện, các thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp phát triển đa dạng. Các quyền, nghĩa vụ về tài sản được thể chế hóa tương đối đầy đủ. Hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên, tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các cam kết quốc tế khác. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện và thông thoáng hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được bảo đảm hơn.
Trên cơ sở định hướng đề ra theo tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, thì khung pháp luật về hội nhập quốc tế đã được hình thành, phát triển khá đồng bộ, tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế, cũng như cơ chế bảo đảm thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam. Luật Điều ước quốc tế năm 2016 đã thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về đối ngoại, đặc biệt là chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; tạo khung pháp lý vừa chặt chẽ, vừa linh hoạt, đáp ứng nhu cầu ký kết và thực hiện điều ước quốc tế phù hợp với lợi ích của đất nước
Thứ hai, chất lượng của hệ thống pháp luật có nhiều chuyển biến tích cực, cơ bản bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ
Thứ ba, nhận thức của các cơ quan nhà nước, cán bộ, Nhân dân về pháp luật và công tác xây dựng pháp luật đã được nâng lên. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan, ban, ngành đều chú trọng, quan tâm hơn đến công tác xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật. Chính phủ xác định xây dựng và hoàn thiện thể chế là nhiệm vụ trọng tâm, giành nhiều thời gian hơn cho công tác xây dựng pháp luật. Ý thức pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân được nâng lên rõ rệt, hoạt động giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước, tổ chức xã hội, Nhân dân thay đổi về hình thức và nội dung, hiệu quả, thực chất.
Kết quả sau 15 năm thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Nghị quyết số 48-NQ/TW là rất lớn. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn một số hạn chế, bất cập:
Một là, hệ thống pháp luật chưa thực sự đồng bộ, tính thống nhất chưa cao, còn cồng kềnh với nhiều hình thức văn bản quy phạm pháp luật, do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành, một số nội dung còn chồng chéo, mâu thuẫn
Hai là, tính dự báo, khả thi của hệ thống pháp luật chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, chi phí tuân thủ pháp luật còn cao. Nhiều dự án luật có vòng đời ngắn
Ba là, trong việc thực hiện định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo 06 nội dung định hướng của Nghị quyết số 48-NQ/TW vẫn còn nội dung, định hướng chưa được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ. Cụ thể:
(i) Việc đổi mới mô hình, nhiệm vụ và thẩm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước chưa thực sự đáp ứng yêu cầu mới về xây dựng và thi hành pháp luật; nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước chủ yếu mới chỉ được ghi nhận theo Hiến pháp năm 2013, việc luật hóa cụ thể còn lúng túng, đặc biệt là việc thiết lập và vận hành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
(ii) Việc phân định chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan chưa thực sự rõ ràng, hợp lý; phân cấp giữa Trung ương và địa phương trong một số lĩnh vực còn chưa phù hợp (phân cấp nhưng chưa tính đến các điều kiện bảo đảm, thiếu quản lý, giám sát của Trung ương). Việc xác định cơ quan nào là bộ, cơ quan nào là cơ quan ngang bộ chưa có tiêu chí cụ thể
(iii) Trong lĩnh vực quyền con người, quyền cơ bản của công dân, so với yêu cầu đặt ra, còn một số quyền của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 nhưng chưa được cụ thể hóa thành luật; chưa có cơ chế hiệu quả để công dân thực hiện quyền yêu cầu xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật mà việc áp dụng văn bản đó gây ra những thiệt hại về quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; quy định về một số hình thức dân chủ trực tiếp (lấy ý kiến và phản biện xã hội…) còn chưa hoàn thiện.
(iv) Đối với lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sở hữu toàn dân còn nhiều điểm chưa rõ ràng về mặt pháp lý, đặc biệt là đối với các tài sản thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn; pháp luật về hình thành và hoạt động của các thị trường còn có điểm chưa đồng bộ, còn thiếu các cơ chế hiệu quả để kiểm soát, quản lý, xử lý vi phạm. Chiến lược cạnh tranh quốc gia và thực thi các chính sách công nghiệp chưa rõ nét; những vướng mắc về thủ tục hành chính, cả trong pháp luật lẫn trong thực tiễn thi hành vẫn đang còn là rào cản đối với quá trình gia nhập thị trường, vận hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể, làm giảm đáng kể sức cạnh tranh và sự hấp dẫn, thu hút đầu tư trong và ngoài nước của Việt Nam.
(v) Thể chế pháp luật về hội nhập quốc tế chưa thực sự thích ứng nhanh với bối cảnh hội nhập sâu rộng, dẫn đến chưa chủ động tận dụng các cơ hội; đồng thời, chưa thấy rõ thách thức để chủ động ứng phó; chưa lường trước các tác động tiêu cực từ bên ngoài để có những biện pháp hạn chế hữu hiệu.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên của hệ thống pháp luật và công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật ở nước ta xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó, những nguyên nhân chủ yếu có thể kể đến như:
– Quy trình xây dựng pháp luật còn thiếu tính liên kết, kiểm soát chặt chẽ giữa các giai đoạn dẫn đến phản ứng chính sách chưa bảo đảm tính linh hoạt khi phải đối phó với những vấn đề phát sinh cần có sự phản ứng nhanh nhạy.
– Nguồn lực tài chính dành cho công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật, mặc dù tranh thủ được nguồn lực hỗ trợ của các tổ chức quốc tế trong công tác xây dựng pháp luật và nâng cao năng lực cán bộ của ngành, tuy nhiên, kinh phí hỗ trợ cũng chỉ đủ chi phí một phần, còn lại phải dựa vào nguồn ngân sách nhà nước hạn hẹp. Công tác đào tạo cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật chưa thực sự khoa học, chưa gắn với thực tiễn nhu cầu của xã hội,
– Cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật chưa hiệu quả, thực chất, nhất là giữa cơ quan hành pháp với cơ quan lập pháp và tư pháp; thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, chưa hợp lý, thiếu linh hoạt.
– Tư duy đổi mới về xây dựng pháp luật, gắn xây dựng với tổ chức thi hành pháp luật chưa được triệt để, chưa phù hợp với từ bối cảnh mới. Một số cơ quan chưa coi trọng đúng mức việc lấy ý kiến, tổng hợp, xử lý và giải trình đầy đủ ý kiến của Nhân dân, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách, văn bản hoặc chưa có phương pháp thực hiện phù hợp. Từ phía xã hội, nhiều cá nhân, tổ chức cũng chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm về tham gia xây dựng pháp luật, giám sát và phản biện xã hội đối với việc thực thi các chính sách, pháp luật của Nhà nước.
– Công tác nghiên cứu lý luận trong lĩnh vực pháp luật và đổi mới tư duy lập pháp chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, chưa gắn việc xây dựng pháp luật với phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước.
3. Định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời gian tới
Sau hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của ta đã lớn mạnh hơn nhiều. Kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội tăng lên. Chất lượng tăng trưởng kinh tế được cải thiện, mô hình tăng trưởng từng bước dịch chuyển sang chiều sâu. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, khả năng chống chịu, thích ứng với tác động bên ngoài còn hạn chế, năng lực tiếp cận nền kinh tế số còn bất cập. Những thách thức an ninh phi truyền thống, thiên tai, dịch bệnh, môi trường, biến đổi khí hậu… ngày càng nặng nề, yêu cầu đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phát triển con người, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh rất lớn trong khi nguồn lực còn hạn hẹp. Phấn đấu đến năm 2030 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; một nền kinh tế năng động, phát triển nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ, gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế… 
Bối cảnh và mục tiêu nêu trên đặt ra những cơ hội và thách thức trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đòi hỏi định hướng của công tác này vừa đảm bảo tính dự báo của hệ thống pháp luật, vừa bảo đảm tính phù hợp, khả thi với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, theo đó cần tập trung vào một số định hướng sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn 2021 – 2030, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật, xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, với chi phí tuân thủ thấp, có sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế – xã hội và quốc phòng, an ninh.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch; hình thành hệ thống thể chế có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và thế giới.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ khoa học – công nghệ; xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, cạnh tranh để tăng cường ứng dụng công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển; xây dựng thể chế để phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, lấy doanh nghiệp là trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Thứ tư, bên cạnh các cải cách trình tự, thủ tục tổ chức thi hành pháp luật theo hướng công khai, minh bạch, thì cần bảo đảm cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong thi hành pháp luật; bảo đảm cơ chế giám sát của cơ quan nhà nước và xã hội đối với công tác thi hành pháp luật; xây dựng đội ngũ công chức có chuyên môn, chuyên nghiệp, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn 2021 – 2030, nhất là yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng.
Thứ năm, trong một số lĩnh vực pháp luật cụ thể, công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật cần linh hoạt, giải quyết các vấn đề phát sinh trong đời sống kinh tế – xã hội, đồng thời phải bảo đảm phù hợp với thực tiễn, điều kiện của nước ta, cụ thể:
– Tiếp tục nghiên cứu, rà soát xây dựng thể chế về tổ chức bộ máy nhà nước; kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước bảo đảm các cơ quan trong hệ thống chính trị hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình trạng trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp; bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, kế thừa những thành quả, kinh nghiệm đã đạt được, phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” đáp ứng yêu cầu của tiến trình đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
– Tiếp tục thể chế hóa các quyền con người, quyền công dân đã được đề ra trong các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Hiến pháp năm 2013, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và có tính đến các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời, tạo điều kiện để người dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp và các quyền tự do, dân chủ khác, tạo thêm động lực cho cải cách, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, các thiết chế trong hệ thống chính trị.
– Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu toàn dân theo hướng tách bạch vai trò của Nhà nước với tư cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế – xã hội và vai trò đại diện chủ sở hữu, tạo điều kiện cho sự tham gia một cách thực chất của người dân trong việc thực thi quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
– Đẩy mạnh việc rà soát, ưu tiên xây dựng các văn bản pháp luật và các thiết chế bảo vệ nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Chú trọng việc nội luật hóa những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhất là các điều ước quốc tế về tự do hóa thương mại thế hệ mới như Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)… Chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương (nhất là các diễn đàn đa phương về pháp luật) và khu vực (nhất là cộng đồng ASEAN) trên cơ sở các chủ trương về hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước./.
 

Nguyễn Hồng Tuyến
Vụ trưởng Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật

 
 

[1] Pháp luật về: Tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị; bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, y tế, văn hóa – thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội; quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; hội nhập quốc tế;[2] Hiến pháp năm 2013 bổ sung, ghi nhận nhiều quyền mới như quyền sống (Điều 19); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43); quyền không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác (khoản 2 Điều 17); quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22); quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42)… Hiến pháp năm 2013 cũng quy định rõ ràng, đầy đủ hơn nội hàm của các quyền mà Hiến pháp năm 1992 đã quy định, đó là các quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trước pháp luật (Điều 16); không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (khoản 1 Điều 20); quyền bảo vệ đời tư (Điều 21); quyền tiếp cận thông tin (Điều 25); quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28); quyền bình đẳng giới (Điều 26); quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29)…[3] Giai đoạn 2005 – 2019, Việt Nam đã ký, gia nhập, phê chuẩn, phê duyệt rất nhiều điều ước quốc tế, góp phần đảm bảo công tác hội nhập kinh tế quốc tế đạt được những thành tựu lớn. Những cam kết mở cửa thị trường không chỉ giới hạn trong phạm vi thương mại hàng hóa mà còn bao gồm thương mại dịch vụ, đầu tư, dịch vụ tài chính, sở hữu trí tuệ… Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách thương mại theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn. Đồng thời hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp đã được đẩy mạnh thông qua việc ký kết các điều ước quốc tế song phương, từng bước tham gia các thiết chế đa phương, khu vực về tương trợ tư pháp, giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư… Xem Phụ lục số 5, Báo cáo số 1182-BC/BCSĐCP ngày 13/11/2019 của Ban Cán sự Đảng Chính phủ tổng kết Nghị quyết số 48-NQ/TW;[4] Mặc dù tình trạng mâu thuẫn giữa các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể vẫn còn, xem nội dung về tồn tại, hạn chế bên dưới.[5] Xem Báo cáo số 1182-BC/BCSĐCP ngày 13/11/2019 của Ban Cán sự Đảng Chính phủ tổng kết Nghị quyết số 48-NQ/TW, tr. 28, 29. Mâu thuẫn giữa Luật Điện lực, Luật Đầu tư với Luật Xây dựng; mâu thuẫn giữa Luật Dầu khí với Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp trong lĩnh vực điện lực, lĩnh vực dầu khí; mâu thuẫn giữa Luật Di sản văn hóa với Luật Đầu tư công, Luật Bảo vệ môi trường; mâu thuẫn giữa Bộ luật Lao động với Luật Doanh nghiệp…[6] Luật Đầu tư công năm 2014 và Luật Đầu tư công năm 2019; Luật Tố tụng hành chính năm 2010 và Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Luật Vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ được Quốc hội khóa XIV thông qua năm 2017, tuy nhiên đến nay, Chính phủ đã trình Quốc hội khóa XIV xem xét thông qua đối với dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (trong 03 năm từ năm 2017 đến năm 2019)…[7] Ngân hàng Nhà nước có chức năng quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại, vừa làm chức năng của Ngân hàng Trung ương; Thanh tra Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước về hoạt động thanh tra, vừa trực tiếp tổ chức hoạt động thanh tra các đối tượng, vụ việc theo thẩm quyền.

Để tăng cường đổi mới công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW). Nghị quyết là văn kiện đầu tiên của Đảng chuyên sâu về công tác pháp luật, với mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; đổi mới căn bản công tác xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.Nghị quyết số 48-NQ/TW xác định nội dung quan trọng, chủ yếu trong Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, theo đó đặt ra 06 nội dung định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam [1] và đề ra 02 nhóm giải pháp trọng tâm với nhiều giải pháp cụ thể để thực hiện.Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, gắn với những nội dung, mục tiêu và các giải pháp về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam được đề ra trong Nghị quyết cơ bản đã hoàn thành, có thể khái quát kết quả đạt được trên những nội dung sau đây:hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng hoàn thiện và phát triển cơ bản cân đối trên mọi lĩnh vực. Trước năm 2005, hệ thống pháp luật chủ yếu được chú trọng xây dựng trong lĩnh vực kinh tế, nhưng đến nay, hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đều có văn bản quy phạm pháp luật ở tầm luật điều chỉnh, cơ bản thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn đường lối, chủ trương của Đảng, không chỉ góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, mà còn bảo đảm xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, chủ động hội nhập quốc tế của đất nước.Pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị nói chung, của Chính phủ và hệ thống cơ quan hành chính nhà nước nói riêng được xây dựng đầy đủ và không ngừng hoàn thiện, đặc biệt sau khi Quốc hội ban hành Hiến pháp năm 2013. Thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện. Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013. Nguyên tắc kiểm soát quyền lực đã được thể chế hóa, là cơ sở cho việc tiếp tục tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và có những bước tiến mới trong hoạt động. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn. Vai trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao.Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận, đề cao việc thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước, phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong tình hình mới, tạo bước chuyển quan trọng trong nhận thức về tư duy lập hiến, lập pháp theo hướng công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân là trách nhiệm của Nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung, ghi nhận nhiều quyền mới [2] và quy định rõ ràng, đầy đủ hơn nội hàm của các quyền mà Hiến pháp năm 1992 đã quy định; đồng thời bổ sung nguyên tắc quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.Pháp luật về dân sự, kinh tế với trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển và phù hợp hơn với luật pháp, thông lệ quốc tế. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành, đáp ứng yêu cầu hội nhập. Chế độ sở hữu ngày càng hoàn thiện, các thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp phát triển đa dạng. Các quyền, nghĩa vụ về tài sản được thể chế hóa tương đối đầy đủ. Hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên, tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các cam kết quốc tế khác. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện và thông thoáng hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được bảo đảm hơn.Trên cơ sở định hướng đề ra theo tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, thì khung pháp luật về hội nhập quốc tế đã được hình thành, phát triển khá đồng bộ, tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế, cũng như cơ chế bảo đảm thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam. Luật Điều ước quốc tế năm 2016 đã thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về đối ngoại, đặc biệt là chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; tạo khung pháp lý vừa chặt chẽ, vừa linh hoạt, đáp ứng nhu cầu ký kết và thực hiện điều ước quốc tế phù hợp với lợi ích của đất nước [3] chất lượng của hệ thống pháp luật có nhiều chuyển biến tích cực, cơ bản bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ [4] . Các văn bản đều được đánh giá về tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ trước khi ban hành. Tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật từng bước được nâng lên. Công tác xây dựng pháp luật đã được đổi mới. Quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất cho cả Trung ương và địa phương. Quy trình xây dựng chính sách tách bạch với quy trình soạn thảo luật, pháp lệnh, bảo đảm sự phù hợp của văn bản quy phạm pháp luật với đường lối, chủ trương của Đảng, từng bước nâng cao tính công khai, minh bạch trong xây dựng chính sách, pháp luật; vai trò tham gia của xã hội vào quy trình xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước được quy định cụ thể; pháp luật về hợp nhất, pháp điển văn bản quy phạm pháp luật góp phần bảo đảm cho hệ thống pháp luật đơn giản, rõ ràng, dễ tra cứu, tiếp cận, dễ sử dụng, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật.nhận thức của các cơ quan nhà nước, cán bộ, Nhân dân về pháp luật và công tác xây dựng pháp luật đã được nâng lên. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan, ban, ngành đều chú trọng, quan tâm hơn đến công tác xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật. Chính phủ xác định xây dựng và hoàn thiện thể chế là nhiệm vụ trọng tâm, giành nhiều thời gian hơn cho công tác xây dựng pháp luật. Ý thức pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân được nâng lên rõ rệt, hoạt động giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước, tổ chức xã hội, Nhân dân thay đổi về hình thức và nội dung, hiệu quả, thực chất.Kết quả sau 15 năm thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Nghị quyết số 48-NQ/TW là rất lớn. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn một số hạn chế, bất cập:Một là, hệ thống pháp luật chưa thực sự đồng bộ, tính thống nhất chưa cao, còn cồng kềnh với nhiều hình thức văn bản quy phạm pháp luật, do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành, một số nội dung còn chồng chéo, mâu thuẫn [5] Hai là, tính dự báo, khả thi của hệ thống pháp luật chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, chi phí tuân thủ pháp luật còn cao. Nhiều dự án luật có vòng đời ngắn [6] . Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về pháp luật chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn và nhiệm vụ quản lý nhà nước. Việc nghiên cứu, đề xuất chính sách chưa có khảo sát, đánh giá kỹ lưỡng, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu về tính chiến lược và tầm nhìn dài hạn. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, việc xem xét các điều kiện, nguồn lực thực hiện vẫn còn chung chung, không rõ ràng.Ba là, trong việc thực hiện định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo 06 nội dung định hướng của Nghị quyết số 48-NQ/TW vẫn còn nội dung, định hướng chưa được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ. Cụ thể:(i) Việc đổi mới mô hình, nhiệm vụ và thẩm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước chưa thực sự đáp ứng yêu cầu mới về xây dựng và thi hành pháp luật; nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước chủ yếu mới chỉ được ghi nhận theo Hiến pháp năm 2013, việc luật hóa cụ thể còn lúng túng, đặc biệt là việc thiết lập và vận hành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.(ii) Việc phân định chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan chưa thực sự rõ ràng, hợp lý; phân cấp giữa Trung ương và địa phương trong một số lĩnh vực còn chưa phù hợp (phân cấp nhưng chưa tính đến các điều kiện bảo đảm, thiếu quản lý, giám sát của Trung ương). Việc xác định cơ quan nào là bộ, cơ quan nào là cơ quan ngang bộ chưa có tiêu chí cụ thể [7] . Tính dân chủ, công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và cơ chế giám sát, phản biện xã hội chưa đáp ứng được đòi hỏi của phát triển kinh tế – xã hội; bộ máy nhà nước vẫn còn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa thực sự cao.(iii) Trong lĩnh vực quyền con người, quyền cơ bản của công dân, so với yêu cầu đặt ra, còn một số quyền của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 nhưng chưa được cụ thể hóa thành luật; chưa có cơ chế hiệu quả để công dân thực hiện quyền yêu cầu xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật mà việc áp dụng văn bản đó gây ra những thiệt hại về quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; quy định về một số hình thức dân chủ trực tiếp (lấy ý kiến và phản biện xã hội…) còn chưa hoàn thiện.(iv) Đối với lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sở hữu toàn dân còn nhiều điểm chưa rõ ràng về mặt pháp lý, đặc biệt là đối với các tài sản thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn; pháp luật về hình thành và hoạt động của các thị trường còn có điểm chưa đồng bộ, còn thiếu các cơ chế hiệu quả để kiểm soát, quản lý, xử lý vi phạm. Chiến lược cạnh tranh quốc gia và thực thi các chính sách công nghiệp chưa rõ nét; những vướng mắc về thủ tục hành chính, cả trong pháp luật lẫn trong thực tiễn thi hành vẫn đang còn là rào cản đối với quá trình gia nhập thị trường, vận hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể, làm giảm đáng kể sức cạnh tranh và sự hấp dẫn, thu hút đầu tư trong và ngoài nước của Việt Nam.(v) Thể chế pháp luật về hội nhập quốc tế chưa thực sự thích ứng nhanh với bối cảnh hội nhập sâu rộng, dẫn đến chưa chủ động tận dụng các cơ hội; đồng thời, chưa thấy rõ thách thức để chủ động ứng phó; chưa lường trước các tác động tiêu cực từ bên ngoài để có những biện pháp hạn chế hữu hiệu.Những tồn tại, hạn chế nêu trên của hệ thống pháp luật và công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật ở nước ta xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó, những nguyên nhân chủ yếu có thể kể đến như:- Quy trình xây dựng pháp luật còn thiếu tính liên kết, kiểm soát chặt chẽ giữa các giai đoạn dẫn đến phản ứng chính sách chưa bảo đảm tính linh hoạt khi phải đối phó với những vấn đề phát sinh cần có sự phản ứng nhanh nhạy.- Nguồn lực tài chính dành cho công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật, mặc dù tranh thủ được nguồn lực hỗ trợ của các tổ chức quốc tế trong công tác xây dựng pháp luật và nâng cao năng lực cán bộ của ngành, tuy nhiên, kinh phí hỗ trợ cũng chỉ đủ chi phí một phần, còn lại phải dựa vào nguồn ngân sách nhà nước hạn hẹp. Công tác đào tạo cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật chưa thực sự khoa học, chưa gắn với thực tiễn nhu cầu của xã hội,- Cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật chưa hiệu quả, thực chất, nhất là giữa cơ quan hành pháp với cơ quan lập pháp và tư pháp; thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, chưa hợp lý, thiếu linh hoạt.- Tư duy đổi mới về xây dựng pháp luật, gắn xây dựng với tổ chức thi hành pháp luật chưa được triệt để, chưa phù hợp với từ bối cảnh mới. Một số cơ quan chưa coi trọng đúng mức việc lấy ý kiến, tổng hợp, xử lý và giải trình đầy đủ ý kiến của Nhân dân, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách, văn bản hoặc chưa có phương pháp thực hiện phù hợp. Từ phía xã hội, nhiều cá nhân, tổ chức cũng chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm về tham gia xây dựng pháp luật, giám sát và phản biện xã hội đối với việc thực thi các chính sách, pháp luật của Nhà nước.- Công tác nghiên cứu lý luận trong lĩnh vực pháp luật và đổi mới tư duy lập pháp chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, chưa gắn việc xây dựng pháp luật với phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước.Sau hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của ta đã lớn mạnh hơn nhiều. Kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội tăng lên. Chất lượng tăng trưởng kinh tế được cải thiện, mô hình tăng trưởng từng bước dịch chuyển sang chiều sâu. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, khả năng chống chịu, thích ứng với tác động bên ngoài còn hạn chế, năng lực tiếp cận nền kinh tế số còn bất cập. Những thách thức an ninh phi truyền thống, thiên tai, dịch bệnh, môi trường, biến đổi khí hậu… ngày càng nặng nề, yêu cầu đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phát triển con người, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh rất lớn trong khi nguồn lực còn hạn hẹp. Phấn đấu đến năm 2030 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; một nền kinh tế năng động, phát triển nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ, gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế…Bối cảnh và mục tiêu nêu trên đặt ra những cơ hội và thách thức trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đòi hỏi định hướng của công tác này vừa đảm bảo tính dự báo của hệ thống pháp luật, vừa bảo đảm tính phù hợp, khả thi với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, theo đó cần tập trung vào một số định hướng sau:trong giai đoạn 2021 – 2030, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật, xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, với chi phí tuân thủ thấp, có sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế – xã hội và quốc phòng, an ninh.tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch; hình thành hệ thống thể chế có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và thế giới.tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ khoa học – công nghệ; xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, cạnh tranh để tăng cường ứng dụng công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển; xây dựng thể chế để phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, lấy doanh nghiệp là trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.bên cạnh các cải cách trình tự, thủ tục tổ chức thi hành pháp luật theo hướng công khai, minh bạch, thì cần bảo đảm cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong thi hành pháp luật; bảo đảm cơ chế giám sát của cơ quan nhà nước và xã hội đối với công tác thi hành pháp luật; xây dựng đội ngũ công chức có chuyên môn, chuyên nghiệp, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn 2021 – 2030, nhất là yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng.trong một số lĩnh vực pháp luật cụ thể, công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật cần linh hoạt, giải quyết các vấn đề phát sinh trong đời sống kinh tế – xã hội, đồng thời phải bảo đảm phù hợp với thực tiễn, điều kiện của nước ta, cụ thể:- Tiếp tục nghiên cứu, rà soát xây dựng thể chế về tổ chức bộ máy nhà nước; kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước bảo đảm các cơ quan trong hệ thống chính trị hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình trạng trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp; bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, kế thừa những thành quả, kinh nghiệm đã đạt được, phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” đáp ứng yêu cầu của tiến trình đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.- Tiếp tục thể chế hóa các quyền con người, quyền công dân đã được đề ra trong các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Hiến pháp năm 2013, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và có tính đến các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời, tạo điều kiện để người dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp và các quyền tự do, dân chủ khác, tạo thêm động lực cho cải cách, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, các thiết chế trong hệ thống chính trị.- Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu toàn dân theo hướng tách bạch vai trò của Nhà nước với tư cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế – xã hội và vai trò đại diện chủ sở hữu, tạo điều kiện cho sự tham gia một cách thực chất của người dân trong việc thực thi quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân.- Đẩy mạnh việc rà soát, ưu tiên xây dựng các văn bản pháp luật và các thiết chế bảo vệ nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Chú trọng việc nội luật hóa những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhất là các điều ước quốc tế về tự do hóa thương mại thế hệ mới như Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)… Chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương (nhất là các diễn đàn đa phương về pháp luật) và khu vực (nhất là cộng đồng ASEAN) trên cơ sở các chủ trương về hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước./.