Tài liệu hỏi – Đáp về chương trình giáo dục phổ thông tổng thể

Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu “Tài liệu hỏi – Đáp về chương trình giáo dục phổ thông tổng thể”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

trung vào các môn học, chuyên đề có nhiều học sinh chọn và nhà trường có thể đảm đương được; những năm sau đó, trường sẽ tiếp tục bồi dưỡng đội ngũ, bổ sung cơ sỏ vật chất để có thể triển khai thêm, mở rộng dần danh sách các môn học, chuyên đề khác.
Việc lập lớp học theo môn học nào, số lượng bao nhiêu học sinh ở lớp học đó sẽ phụ thuộc vào sự tính toán năng lực của nhà trường về nhân lực, về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên đảm nhận dạy môn học đó. Trường hợp có ít HS đăng kí học thì có thể hướng dẫn HS chuyển nguyện vọng hay chờ sang năm học sau sẽ có thêm các bạn có cùng nguyện vọng, cũng có thể gửi học sinh học ở trường lân cận rồi được thông báo kết quả học tập về trường... 
Bộ GDĐT, các sở GDĐT hỗ trợ cho quản lí các trường: tập huấn cán bộ quản lí về kĩ năng điều hành trường THPT theo phương thức dạy học tự chọn, áp dụng các phần mềm quản lý dạy học tự chọn... 
Bộ và các trường tổ chức bồi dưỡng GV dạy các chuyên đề mới, bổ sung dần cơ sở vật chất cho CT mới, mời giáo viên hoặc những người có đủ điều kiện đến thỉnh giảng
Câu 12. Giải pháp về giáo viên và tổ chức dạy học các môn học tích hợp ở THCS và các môn học tự chọn, các chuyên đề học tập tự chọn ở THPT? 
1. Về dạy học các môn tích hợp ở THCS
Nội dungcác môn học tích hợp được thiết kế gồm kiến thức thuộc từng phân môn, gồm Vật lý, Hóa học, Sinh học (môn KHTN) và Lịch sử, Địa lý (môn KHXH); đồng thời có các chuyên đề kiến thức liên phân môn. Nhà trường lựa chọn giáo viên có năng lực phù hợp nhất để phân công dạy từng phân môn hoặc chuyên đề cụ thể.
Các biện pháo hỗ trợ giáo viên: bồi dưỡng, tự bồi dưỡng giáo viên để có vốn tri thức rộng và khả năng vận dụng tổng hợp các kiến thức có liên quan; giáo viên dự giờ, sinh hoạt chuyên môn, cùng nhau trao đổi, thiết kế các chủ đề tích hợp qua đó phát triển năng lực dạy học tích hợp. Các cuộc thi giáo viên dạy học tích hợp trong 2 năm qua do Bộ GD&DDT tổ chức đã thu được kết quả rất tốt.
	2. Về tổ chức dạy học phân hóa theo các môn học tự chọn, các chủ đề học tập tự chọn ở THPT
Tập hợp đăng ký nguyện vọng của học sinh, xem xét khả năng đáp ứng (về người dạy, phòng học) của nhà trường, Hiệu trưởng có thể sử dụng phần mềm quản lý dạy học tự chọn (do Bộ GDĐT hướng dẫn) để xếp học sinh cùng nguyện thành từng lớp và phân công người dạy (là giáo viên của trường hoặc giáo viên thỉnh giảng, kể cả người dạy từ các cơ sở dạy nghề, các trường cao đẳng, đại học, các doanh nhân, nghệ nhân có đủ điều kiện).
Nếu môn học hoặc chuyên đề có ít học sinh chọn thì có thể áp dụng các biện pháp sau: hướng dẫn học sinh thay đổi nguyện vọng, gửi học sinh sang học ở trường khác và báo cáo kết quả học tập về trường, cho học sinh chờ cùng học với các bạn trong năm học sau 
Mỗi nhà trường cần xác định lộ trình riêng về bồi dưỡng và phân công người dạy, bổ sung phòng và thiết bị dạy học, liên kết với các cơ sở giáo dục, cơ quan nghiên cứu, cơ sở sản xuất để qua mỗi năm lại tăng thêm số môn học và chuyên đề tự chọn được dạy trong trường, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu định hướng nghề nghiệp của học sinh và phân hóa ngành nghề trong xã hội. 
Các cơ sở đào tạo giáo viên cần thiết kế mới CT sao cho sinh viên vừa được đào tạo để dạy học các môn học tích hợp, các môn học và chuyên đề tự chọn.
Câu 13. Yêu cầu đổi mới nội dung giáo dục trong CT GDPT mới? 
Nghị quyết số 88/2014/QH13 đã xác định: “Đổi mới nội dung GDPT theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và định hướng nghề nghiệp; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên”. Đây chính là yêu cầu khái quát về đổi mới nội dung GDPT.
Thực hiện yêu cầu trên, nội dung giáo dục trong CT GDPT mới được thiết kế tương ứng theo hai giai đoạn: Giáo dục cơ bản (gồm cấp tiểu học và cấp trung học cơ sở) và giáo dục định hướng nghệ nghiệp (cấp trung học phổ thông). 
Giáo dục cơ bản bảo đảm trang bị kiến thức phổ thông nền tảng, nội dung CT được thiết kế theo hướng lồng ghép những nội dung liên quan với nhau của một số lĩnh vực giáo dục, một số môn học trong CT hiện hành để tạo thành môn học tích hợp; thực hiện tinh giản, tránh chồng chéo nội dung giáo dục, giảm hợp lý số môn học.
Giáo dục định hướng nghề nghiệp có nội dung dạy học mang tính phân hóa cao, chuẩn bị cho học sinh tham gia thị trường lao động hoặc học giai đoạn sau phổ thông có chất lượng, chuyển hình thức dạy học phân hóa từ phân ban (hiện nay) sang yêu cầu học sinh học một số môn học bắt buộc, đồng thời được tự chọn các môn học và chuyên đề học tập có nội dung phù hợp với năng lực, sở trường của mỗi học sinh và gắn với định hướng nghề nghiệp sau THPT.
Chỉ lựa chọn những nội dung cơ bản, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi học sinh, liên quan và có vai trò trong việc hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực cho người học.
CT GDPT quy định những yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực (CT tổng thể) và kiến thức, kỹ năng (CT môn học) của học sinh mỗi cấp học, những nội dung cốt lõi/bắt buộc; đồng thời dành thời lượng để các địa phương và nhà trường xây dựng các nội dung giáo dục của địa phương (về văn học, lịch sử, địa lý, văn hóa, kinh tế).
	Cấu trúc nội dung các môn học trong CT GDPT mới tránh việc viết các môn học ở phổ thông như là môn khoa học tương ứng thu nhỏ của bậc đại học; phải coi trọng cả tính khoa học và tính sư phạm của CT, SGK; đồng thời nội dung phải được thiết kế phù hợp với đặc trưng của từng lĩnh vực giáo dục, nhất là các lĩnh vực về giáo dục đạo đức, rèn luyện kỹ năng, thể thao, nghệ thuật, ngoại ngữ, tin học.
Câu 14. Quan hệ giữa lĩnh vực giáo dục với các môn học, hoạt động TNST? 
Lĩnh vực giáo dục dùng để chỉ phạm vi giáo dục rộng, mỗi lĩnh vực giáo dục có những nội dung giáo dục cốt lõi (bắt buộc) được thực hiện chủ yếu thông qua một hoặc nhiều môn học hay hoạt động TNST, mỗi lĩnh vực giáo dục có ưu thế trong việc hình thành và phát triển cho học sinh một số phẩm chất, năng lực nhất định. 
Việc xây dựng các môn học tích hợp, các nội dung chủ đề liên môn và các hoạt động TNST trước hết phải dựa trên cơ sở lĩnh vực giáo dục. Ví dụ tích hợp các nội dung Lý, Hóa, Sinh thành môn Khoa học tự nhiên vì chúng cùng nằm trong lĩnh vực KHTN.
Coi trọng và tăng cường hoạt động TNST là một đổi mới căn bản của CT GDPT mới. Mỗi hoạt động TNST đều có yêu cầu vận dụng tổng hợp nhiều lĩnh vực kiến thức, kỹ năng nên thường có tác động đến nhiều lĩnh vực giáo dục khác nhau, phụ thuộc chủ yếu vào nội dung và hình thức của hoạt động. 
CT GDPT mới xác định có 08 lĩnh vực giáo dục: Ngôn ngữ và văn học, Toán học, Đạo đức – công dân, Thể chất, Nghệ thuật, Khoa học xã hội, Khoa học tự nhiên, Công nghệ - Tin học.
Hệ thống các môn học và hoạt động TNST được thiết kế theo định hướng bảo đảm cân đối nội dung các lĩnh vực giáo dục, phù hợp với từng cấp học, lớp học; thống nhất giữa các lớp học/cấp học; tích hợp mạnh ở các lớp dưới, phân hóa dần ở các lớp học trên, tương thích với các môn học ở nhiều nước trên thế giới. Chẳng hạn lĩnh vực khoa học (KHTN và KHXH) chỉ có 01 môn học Cuộc sống quanh ta (ở lớp 1, 2, 3); tách thành 02 môn Tìm hiểu xã hội và Tìm hiểu tự nhiên (ở các lớp 4, 5); tương ứng với 02 môn học Khoa học xã hội và Khoa học tự nhiên (ở THCS). Lên THPT Vật lý, Hóa học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý được tách thành các môn học riêng, đồng thời vẫn có môn Khoa học xã hội dành cho những học sinh định hướng KHTN (không học các môn Lịch sử, Địa lý) và môn Khoa học tự nhiên dành cho các học sinh định hướng KHXH (không học các môn Vật lý, Hoá học, Sinh học).
Câu 15. Thế nào là hoạt động TNST trong CT GDPT? Sự khác nhau giữa môn học và hoạt động TNST? 
Coi trọng, tăng cường và đổi mới tổ chức hoạt động TNST là một đổi mới căn bản của CT GDPT mới.
1. Hoạt động TNST trong CT GDPT là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, các kỹ năng, tích luỹ kinh nghiệm riêng và phát huy tiềm năng sáng tạo của mỗi cá nhân.
Ví dụ về Hoạt động TNST: Trường THPT Nguyễn Tất Thành đã tổ chức cho một số học sinh học về Cốm làng Vòng. Học sinh đã tìm cách tiếp cận, trao đổi với người dân làng Vòng và tìm hiểu qua nhiều tư liệu để biết được các đặc điểm về lịch sử, ý nghĩa văn hoá, dinh dưỡng, cách làm, yêu cầu về chất lượng cốm, trao đổi mua bán cốm; học sinh cũng được dân làng cho tập làm cốm; các em đã đề xuất và áp dụng một số biện pháp để nâng cao chất lượng cốm, cách quảng bá cốm trong nước và ra nước ngoài; các em viết báo cáo kết quả nghiên cứu theo các nhóm khác nhau Qua hoạt động này các em được rèn luyện kỹ năng giao tiếp, vận dụng tổng hợp kiến thức của nhiều môn học, phương pháp thu thập và xử lý thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, phát triển óc quan sát và kỹ năng thực hành nghề nghiệp và kinh doanh, viết báo cáo và thuyết trình; phát triển quan hệ, tình cảm với dân làng
TNST là hoạt động được coi trọng trong từng môn học; đồng thời trong kế hoạch giáo dục cũng bố trí các hoạt động TNST riêng, hoạt động này mang tính tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục, kiến thức, kỹ năng khác nhau.
Với CT hiện hành, có thể coi hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động tập thể, hoạt động theo chủ điểm và cả hoạt động Đoàn - Đội là hoạt động trải nghiệm. Trong CT mới, Hoạt động TNST cùng với dạy học các môn làm thành 2 loại hoạt động giáo dục chính của các nhà trường. Trong CT của một số nước, hoạt động giáo dục thường có tên gọi là hoạt động ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động TNST.
Hoạt động TNST trong CT GDPT mới là hoạt động có tính mở, vừa kế thừa tất cả các hoạt động giáo dục phù hợp, có hiệu quả của CT GDPT hiện hành, vừa bổ sung, đổi mới nhiều hoạt động khác nhằm đáp ứng được mục tiêu và yêu cầu của CT GDPT mới. 
Hoạt động TNST được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 12, bao gồm các nội dung bắt buộc và nội dung tự chọn được thiết kế theo 2 giai đoạn: giáo dục cơ bản (từ lớp 1 đến lớp 9) và giáo dục định hướng nghề nghiệp (từ lớp 10 đến lớp 12). 
	2. Sự khác nhau giữa môn học và hoạt động TNST
	Môn học được hình thành tương ứng với một lĩnh vực khoa học nhất định, trong đó đề cập đến hệ thống khái niệm, tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Nội dung môn học được quy định khá chặt chẽ, phù hợp với lô gíc nhận thức, tuân theo một CT, kế hoạch dạy học. Các môn học có chức năng chủ yếu là thực hiện nhiệm vụ giáo dục trí tuệ, nhận thức, hình thành các biểu tượng, khái niệm, định luật, lý thuyết, các kỹ năng tư duy...
	Hoạt động TNST hướng đến hệ thống giá trị, chuẩn mực về đạo đức, văn hoá, thẩm mĩ... Loại tri thức này có tính linh hoạt,“mềm dẻo”, chủ yếu dựa theo nhu cầu xã hội, nguyện vọng và hứng thú của học sinh. Hoạt động TNST nhằm tích lũy kinh nghiệm quan hệ, hoạt động, ứng xử, giải quyết vấn đề để thích ứng với sự đa dạng của cuộc sống luôn vận động. Hoạt động TNST có chức năng chủ yếu là thực hiện các nhiệm vụ giáo dục đạo đức, giá trị, niềm tin, lý tưởng, thẩm mĩ, sức khoẻ, thái độ lao động, nguyên tắc hành vi, lối sống và kỹ năng sống
Câu 16. Giải pháp triển khai hoạt động TNST?
Về bản chất, hoạt động TNST trong CT mới vẫn là thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của hoạt động tập thể, giáo dục ngoài giờ lên lớp trong CT hiện hành nhưng với mục tiêu cao hơn, nội dung, hình thức, phương pháp phong phú hơn. Vì vậy cần triển khai một số biện pháp phù hợp: 
Phổ biến, tuyên truyền sâu rộng trong nhà trường, cộng đồng, phụ huynh; tăng cường giao lưu, hợp tác với các tổ chức xã hội, các cá nhân và doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, nhất là các cơ sở tại địa phương để tất cả cùng hiểu, đồng tình ủng hộ và cùng tham gia vào quá trình giáo dục. 
Bồi dưỡng giáo viên, đặc biệt những giáo viên bộ môn và giáo viên thường xuyên thực hiện CT Hoạt động TNST để nhận thức đúng về mục tiêu, tính chất, nội dung, cách thức tiến hành, kiểm tra - đánh giá của hoạt động này trong CT GDPT mới.
Hướng dẫn giáo viên tìm hiểu các đặc điểm, điều kiện về nhân lực, kinh tế, văn hoá, xã hội, danh thắng, di tích... trên địa bàn để có thể khai thác sử dụng hiệu quả nhất vào mục đích tổ chức Hoạt động TNST phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý học sinh; góp phần gắn kế hoạch giáo dục nhà trường với việc phục vụ các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Nhà trường chủ động liên kết với các đoàn thể, tổ chức chính trị, xã hội như Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Hội Chữ thập đỏ để tổ chức đa dạng các Hoạt động TNST phù hợp với mục tiêu hoạt động của từng đoàn thể, tổ chức.
Triển khai thí điểm, hội thảo, tăng cường trao đổi kinh nghiệm tổ chức Hoạt động TNST giữa các nhà trường, tham quan học tập lẫn nhau, cập nhật và học hỏi kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục tiên tiến.
	 Câu 17. Bảng kế hoạch giáo dục cho biết những gì?
Bảng kế hoạch giáo dục trong CT tổng thể cho biết thông tin về hệ thống môn học, hoạt động TNST và chuyên đề học tập (sau đây gọi chung là môn học) được thiết kế bảo đảm tính tiếp nối, liên thông giữa các môn học, các lớp học, các cấp học (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông) và 2 giai đoạn giáo dục (giáo dục cơ bản và giáo dục định hướng nghề nghiệp).
Theo chiều ngang từ trái qua phải, bảng kế hoạch giáo dục cho thấy sự phát triển của từng môn học từ lớp dưới lên lớp trên, xuyên suốt qua các cấp học; sự thay đổi tên gọi của một số môn học phản ánh sự thay đổi cách tiếp cận và tính chất nội dung môn học, gợi ý phương pháp dạy học của môn học qua các lớp, các cấp học; từ một môn học ở lớp dưới tách ra thành nhiều môn học ở lớp trên thể hiện định hướng tích hợp mạnh ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên. Ví dụ: Cuộc sống quanh ta, thành Tìm hiểu xã hội + Tìm hiểu tự nhiên, thành Khoa học xã hội + Khoa học tự nhiên, thành Lịch sử + Địa lý và Vật lý + Hoá học + Sinh học. Điều này góp phần tạo thuận lợi cho việc xây dựng CT môn học bảo đảm tính liên thông giữa các lớp học, cấp học. 
Theo chiều từ trên xuống, bảng kế hoạch giáo dục cho biết thông tin về hệ thống môn học của từng lớp và cấp học; môn học bắt buộc, môn học tự chọn ở mỗi lớp và hướng dẫn học sinh tự chọn các môn học/nội dung tự chọn; trong bảng có các con số ghi thời lượng giáo dục (số tiết học trung bình hàng tuần) phân cho môn học ở từng lớp, đảm bảo sự cân đối giữa các môn học ở từng lớp, từng cấp học, đồng thời tạo thuận lợi cho trường phổ thông xây dựng, phát triển kế hoạch giáo dục riêng trong quá trình triển khai thực hiện CTGD.
	Câu 18. Tính tiếp nối, liên thông giữa các cấp học, các lớp học, giữa các môn học, chuyên đề học tập và hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong CT GDPT? 
Một yêu cầu quan trọng là CT GDPT mới phải đảm bảo tính liên thông, tiếp nối giữa các cấp học, lớp học, giữa các môn học và các hoạt động giáo dục: 
- Trước khi xây dựng CT các môn học và hoạt động GD phải xây dựng CT tổng thể cho toàn bộ GDPT thống nhất, xuyên suốt từ lớp 1 đến lớp 12. Các CT môn học cũng phải thiết kế thống nhất và xuyên suốt từ khi môn học bắt đầu đến khi môn học kết thúc trong CT GDPT. 
CT các môn học không chỉ thống nhất, xuyên suốt từ thấp lên cao giữa các cấp học/lớp học (hàng dọc) mà còn phải xem xét, đối chiếu nội dung giáo dục giữa các môn học/hoạt động trải nghiệm sáng tạo (theo hàng ngang) để tích hợp, lồng ghép các nội dung liên quan với nhau trong các môn học tích hợp hoặc các chủ đề tích hợp liên môn để khắc phục tình trạng nội dung trùng lặp, nặng nề, thiếu thống nhất giữa các môn học và hoạt động TNST.
Cấu trúc nội dung của từng môn học được thiết kế theo nguyên tắc vừa đồng tâm xoắn ốc (lặp lại có nâng cao) vừa tuyến tính (thêm nội dung mới); các mạch kiến thức và kĩ năng được sắp xếp hợp lý, bảo đảm tính sư phạm: từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp; các thuật ngữ, khái niệm khoa học phải thống nhất trong tất cả các môn học, cấp/lớp.
Coi trọng các hoạt động TNST của học sinh trong từng môn học, đồng thời thiết kế CT hoạt động TNST riêng để phù hợp với các nội dung chưa có và khó thực hiện được ở từng môn học (hoạt động nhân đạo, tình nguyện, câu lạc bộ, trải nghiệm thực tế), các hoạt động này cũng cần vận dụng tối đa các hiểu biết (kiến thức, kĩ năng) của các môn học để vừa nâng cao chất lượng hoạt động, vừa củng cố khắc sâu thêm kết quả học tập các môn học. Hoạt động TNST và hoạt động dạy học các môn học có liên quan mật thiết đến nhau, tuy nhiên, nội dung cụ thể và mục tiêu hướng tới của hai hoạt động này cần phải liên thông để tránh trùng lặp. 
Các chuyên đề học tập tự chọn chỉ thực hiện ở lớp 11 và 12 với 2 loại: Loại chuyên đề mở rộng, nâng cao các môn học cơ bản cần đặt trong mối quan hệ với CT bắt buộc và tự chọn các môn học ở 2 lớp này để thiết kế cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu phân hóa (chuyên sâu). Loại chuyên đề mang tính hướng nghiệp (mang tính nhập môn theo nhóm ngành nghề hoặc giới thiệu sâu hơn vào những ngành nghề đang được xã hội quan tâm nhất). Cần dựa vào yêu cầu của các khối ngành đào tạo đại học, cao đẳng và các nghề phổ biến trong nước hoặc địa phương để dần dần xây dựng được một hệ thống các chuyên đề ngày càng phong phú nhằm cung cấp các thông tin cơ bản, thiết thực, hữu ích cho học sinh trong việc định hướng nghề nghiệp.
	Câu 19. Có môn học nào mới trong CT GDPT? 
	CT GDPT mới có các môn học với tên gọi mới nhưng thực chất là các môn học có nội dung kế thừa CT hiện hành và bổ sung các nội dung mới hoặc tích hợp, lồng ghép các nội dung liên quan trong một môn học. Cụ thể là:
Ở cấp tiểu học, môn học có tên gọi mới là:
Cuộc sống quanh ta (từ lớp 1- lớp 3) nội dung vừa kế thừa CT môn Tìm hiểu Tự nhiên và Xã hội trong CT hiện hành, vừa bổ sung và phát triển theo yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực học sinh. 
Giáo dục lối sống (từ lớp 1- lớp 5) vừa kế thừa nội dung CT môn giáo dục đạo đức của CT hiện hành, vừa phát triển, bổ sung, thiết kế lại theo yêu cầu mới. Tiếp nối môn học này ở THCS là môn Giáo dục công dân.
Ở cấp THCS, môn học mới gồm:
Khoa học tự nhiên với cấu trúc nội dung tích hợp các chủ đề của các phân môn Vật lý, Hoá học, Sinh học, Khoa học trái đất, đồng thời có thêm một số chủ đề liên phân môn được sắp xếp sao cho vừa bảo đảm liên hệ theo logic tuyến tính vừa tích hợp đồng tâm, hình thành các nguyên lý, quy luật chung của thế giới tự nhiên. 
Khoa học xã hội với cấu trúc nội dung tích hợp chủ yếu các lĩnh vực kiến thức về Lịch sử, Địa lý, đồng thời lồng ghép, tích hợp kiến thức ở mức độ đơn giảnvề kinh tế, văn hoá, khoa học, tôn giáo,....
Môn học mới ở cấp THPT gồm:
Công dân với Tổ quốc gồm các nội dung chủ yếu là giáo dục nhân cách công dân và giáo dục về quốc phòng - an ninh.
Khoa học xã hội (dành cho học sinh lớp 10 và 11 theo định hướng KHTN không học các môn Lịch sử, Địa lý) gồm các nội dung tuyến tính hoặc đồng tâm xoáy ốc với cấp THCS nhằm trang bị kiến thức cơ bản nhất, liên hệ mật thiết với sự phát triển của xã hội và cuộc sống hiện thực, cần thiết cho tất cả mọi người.
Khoa học tự nhiên (dành cho học sinh lớp 10 và 11 theo định hướng KHXH, không học các môn Vật lý, Hoá học, Sinh học) nhằm hình thành những tri thức khái quát nhất, có tính nguyên lý chung nhất của giới tự nhiên cần thiết cho tất cả học sinh theo định hướng nghề nghiệp ở bất kỳ nhóm ngành nào để duy trì phát triển ở mức cao hơn trên nền hiểu biết rộng. 
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục mới của cả 3 cấp học, được phát triển từ các hoạt động tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoại khoá của CT hiện hành, được thiết kế thành các chuyên đề tự chọn nhằm giúp học sinh phát triển các năng lực, kỹ năng, niềm tin, đạo đức nhờ vận dụng những tri thức, kiến thức, kỹ năng, thái độ đã học từ nhà trường và những kinh nghiệm của bản thân vào thực tiễn cuộc sống một cách sáng tạo thông qua các hình thức và phương pháp chủ yếu như: thực địa, tham quan, câu lạc bộ, hoạt động xã hội/tình nguyện, diễn đàn, giao lưu, hội thảo, trò chơi, cắm trại, thực hành lao động...
Câu 20. Hệ thống môn học bắt buộc và tự chọn ở mỗi cấp học có gì mới?	
Xét về hình thức, tên gọi các môn học bắt buộc (BB) và tự chọn (TC) đã có trong CT GDPT hiện hành. Tuy nhiên, để đáp ứng những yêu cầu mới, CT GDPT mới có nhiều bổ sung, thay đổi về hệ thống các môn học BB và TC: từ quan niệm, tên gọi, nguyên tắc lựa chọn đến sắp xếp, phân bổ thời lượng và các hình thức tổ chức dạy học Sau đây là mô tả hệ thống các môn học BB và TC trong CT GDPT mới để làm rõ sự thay đổi ấy.
	Trong cả 3 cấp học, các môn học được chia thành: Môn học BB và môn học TC. Với định hướng phân hóa sâu dần từ lớp dưới lên lớp trên. Theo thứ tự từ tiểu học đến trung học phổ thông, số lượng các môn học BB giảm đi và số môn học TC tăng dần.
Môn học bắt buộc là môn học mà mọi học sinh đều phải học.Nội dung các môn học BB tạo nên cốt lõi học vấn phổ thông, không thể thiếu đối với tất cả học sinh. Các môn học TC gồm 3 loại: 
	-Tự chọn tuỳ ý (TC1): học sinh có thể chọn hoặc không chọn; Ví dụ: với các môn học như Ngoại ngữ 2, Tiếng dân tộc, Hoạt động nghiên cứu khoa học kĩ thuật, HS có thể chọn học hoặc không học. 
	- Tự chọn trong nhóm môn học (TC2): học sinh buộc phải chọn một hoặc một số môn học trong nhóm môn học theo quy định trong CT; Ví dụ: ngoài các môn học BB ở cấp THPT (Toán, Ngữ văn, Ngoại ngữ, Công dân với Tổ quốc), học sinh được tự chọn một số môn trong số các môn học còn lại (Lịch sử, Địa lý, Hóa học, Sinh học, Vật lý)
	- Tự chọn trong môn học (TC3): học sinh buộc phải chọn một số nội dung trong một môn học. Ví dụ trong môn học Thể dục - Thể thao, có nhiều nội dung hoạt động khác nhau như: bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, bơi, cờ tướng HS sẽ được chọn một số trong các họat động đó phù hợp với sở thích, nhu cầu của mình Phụ thuộc vào điều kiện dạy học (cơ sở vật chất, giáo viên) của từng trường mà danh mục các nội dung dạy học tự chọn có thể nhiều hay ít và thay đổi khác nhau.
Các môn học/hoạt động giáo dục được phân bổ cụ thể ở các cấp như sau:
a) Giai đoạn giáo dục cơ bản (cấp tiểu học và cấp THCS):
- Ở Tiểu học:
Các môn bắt buộc gồm: Tiếng Việt, Toán, Ngoại ngữ 1, Thể d