Môn Mĩ Thuật trong Chương trình giáo dục phổ thông mới

Môn Mĩ Thuật trong Chương trình giáo dục phổ thông mới

I. Những kế thừa và khác biệt

 

          Mĩ thuật là môn học thuộc lĩnh vực GD nghệ thuật. Chương trình (CT) môn Mĩ thuật vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới, vừa chú trọng kế thừa và phát huy những ưu điểm của CT môn Mĩ thuật hiện hành.

          Những điểm đáng lưu ý được kế thừa

          ThS.GVC Nguyễn Thị Đông – Chủ biên CT môn Mĩ thuật – chia sẻ: CT mới môn Mĩ thuật tiếp tục mục tiêu GD mĩ thuật, giúp HS có những kiến thức ban đầu về mĩ thuật, hình thành những hiểu biết cơ bản cần thiết về đường nét, hình khối, màu sắc, đậm nhạt…; có hiểu biết sơ lược về mĩ thuật Việt Nam và thế giới; rèn luyện kĩ năng quan sát, qua đó phát triển tư duy, trí tưởng tượng, sáng tạo, thực hành và phân tích được sơ lược một số tác phẩm mĩ thuật Việt Nam và thế giới, biết vận dụng kĩ năng đó vào cuộc sống; bước đầu cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con người, vẻ đẹp của một số tác phẩm mĩ thuật.

          CT môn học tiếp tục thể hiện quan điểm: GD thẩm mĩ, tính phổ cập, tính ứng dụng, tính liên thông và tăng cường thực hành. Đồng thời, kế thừa cơ bản mạch nội dung dạy học các phân môn: Vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh, thường thức mĩ thuật, tập nặn, tạo dáng và một số nội dung thủ công các lớp 1, 2, 3 (môn Thủ công, Kĩ thuật). Tuy nhiên, các nội dung này được tổ chức lại và phát triển theo hai mạch nội dung Mĩ thuật tạo hình và Mĩ thuật ứng dụng, gắn với yêu cầu cần đạt về năng lực đặc thù.

          CT cũng tiếp tục vận dụng các phương pháp dạy học (PPDH) quy định trong CT Mĩ thuật hiện hành. Ví dụ: PP trực quan; PP quan sát; PP gợi mở, vấn đáp; PP luyện tập; PP hợp tác theo nhóm; PP trò chơi. Các PP này trong CT mới chú trọng vận dụng linh hoạt trong thực hành và thảo luận mĩ thuật, đồng thời phối hợp với các PP, hình thức DH tích cực, nhằm quán triệt quan điểm dạy học “lấy người học làm trung tâm” trong tiến trình GD.

          Để hình thành, phát triển hoạt động phân tích và đánh giá thẩm mĩ ở HS, trong tổ chức dạy học, giáo viên khích lệ HS tích cực tham gia hoạt động học tập; vận dụng đa dạng các PP, hình thức tổ chức dạy học, tạo điều kiện để HS được tiếp cận và khám phá nghệ thuật bằng nhiều cách khác nhau (trưng bày, triển lãm, nhận xét, thảo luận, chia sẻ, nói, viết, biểu đạt ngôn ngữ cơ thể, diễn hoạt hình ảnh…); kết hợp liên hệ truyền thống văn hóa, bối cảnh xã hội và khai thác thiết bị công nghệ, nguồn Internet; quan tâm đến sự khác biệt về giới tính, đa dạng sắc tộc, đặc điểm văn hoá vùng miền và tính thời đại; các yếu tố này cần được cân nhắc, phù hợp với đặc điểm tâm – sinh lí lứa tuổi HS và điều kiện dạy học thực tế; đồng thời, cần chú ý đến mối liên hệ và tương tác giữa các thành phần năng lực khác của năng lực mĩ thuật trong tiến trình dạy học. Qua đó, HS thể hiện sự tự hào về sản phẩm mĩ thuật do mình tạo nên, tôn trọng sản phẩm, tác phẩm nghệ thuật của người khác và biết tự đánh giá quá trình học tập.

          Bên cạnh việc kế thừa những ưu điểm của CT Mĩ thuật hiện hành, CT môn Mĩ thuật đổi mới lần này tiếp cận với xu hướng quốc tế dựa trên cơ sở nghiên cứu CT môn học của một số quốc gia, vùng lãnh thổ, kết hợp tham vấn chuyên gia tư vấn quốc tế về giáo dục Mĩ thuật, rút ra các xu hướng chung trong xây dựng CT môn Mĩ thuật có thể vận dụng vào trường phổ thông Việt Nam. Cụ thể CT môn Mĩ thuật học tập kinh nghiệm tập trung ở một số phương diện sau: Xác định thành phần năng lực đặc thù và xây dựng yêu cầu cần đạt; lựa chọn nội dung dạy học; định hướng PPDH và đánh giá kết quả GD.

          Điểm mới trong chương trình môn học

          Nói về những điểm mới nổi bật trong CT môn Mĩ thuật, ThS.GVC Nguyễn Thị Đông cho biết: CT được xây dựng theo định hướng hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực HS; lần đầu tiên được dạy học ở cấp THPT. CT bảo đảm dạy học tích hợp, dạy học phân hóa và định hướng nghề nghiệp. Ở giai đoạn GD cơ bản, môn học là nội dung GD bắt buộc; ở giai đoạn GD định hướng nghề nghiệp, môn học là nội dung GD lựa chọn.

          CT xây dựng theo hướng mở, thể hiện ở việc không quy định cụ thể nội dung GD mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về năng lực đặc thù của môn học. Việc lựa chọn nội dung GD để biên soạn SGK dành quyền chủ động cho tác giả; việc tổ chức GD, kiểm tra đánh giá… dành quyền chủ động cho các cơ sở GD và giáo viên miễn là đáp ứng các yêu cầu cần đạt được quy định trong CT.

          CT chú trọng đổi mới PP, vận dụng đa dạng hình thức, không gian học tập, các chất liệu, vật liệu sưu tầm, tái sử dụng trong thực hành, sáng tạo; chú trọng lồng ghép, tích hợp hoạt động thực hành và thảo luận, HS đồng thời vừa là “người sáng tạo nghệ thuật” vừa là “người thưởng thức nghệ thuật”.

          CT cũng đổi mới đánh giá, trọng tâm là đánh giá năng lực mĩ thuật, một biểu hiện của năng lực thẩm mĩ; kết hợp đánh giá quá trình với đánh giá tổng kết thông qua sử dụng những công cụ đánh giá như quan sát, nhận xét sản phẩm, dự án học tập, hồ sơ học tập…; tạo cơ hội để HS tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng.
 

 

Mục tiêu và yêu cầu cần đạt

          Theo ThS.GVC Nguyễn Thị Đông, CT Mĩ thuật giúp HS đạt được các mục tiêu chủ yếu sau: Hình thành, phát triển năng lực mĩ thuật dựa trên kiến thức và kĩ năng mĩ thuật; nhận thức được mối quan hệ giữa mĩ thuật với đời sống, xã hội và các loại hình nghệ thuật khác. Có ý thức trân trọng di sản văn hoá, nghệ thuật và khả năng ứng dụng kiến thức, kĩ năng mĩ thuật vào đời sống. Có hiểu biết tổng quát về ngành nghề liên quan đến nghệ thuật thị giác và khả năng định hướng được nghề nghiệp cho bản thân. Trải nghiệm và khám phá mĩ thuật thông qua nhiều hình thức hoạt động; góp phần hình thành, phát triển các phẩm chất yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm; các năng lực tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo.

          CT môn học chú trọng hình thành, phát triển năng lực mĩ thuật – biểu hiện của năng lực thẩm mĩ với các thành phần: Quan sát và nhận thức thẩm mĩ, sáng tạo và ứng dụng thẩm mĩ, phân tích và đánh giá thẩm mĩ. Mô hình khái quát năng lực đặc thù của môn học như sau:

          Để hình thành, phát triển hoạt động quan sát và nhận thức thẩm mĩ ở HS, trong tổ chức dạy học, giáo viên khuyến khích và tạo cơ hội để HS được quan sát, nhận thức về đối tượng thẩm mĩ từ bao quát, tổng thể đến chi tiết, bộ phận và đối chiếu, so sánh để tìm ra đặc điểm, vẻ đẹp và phát hiện các giá trị thẩm mĩ của đối tượng. Tùy theo nội dung, mục đích dạy học và tâm lí lứa tuổi, khả năng nhận thức của HS, giáo viên đặt ra yêu cầu quan sát một cách phù hợp, nhằm thúc đẩy, phát triển ở HS ý thức tìm tòi, khám phá cuộc sống, môi trường xung quanh và thưởng thức nghệ thuật. Quan sát, nhận thức thẩm mĩ cần được kết hợp, lồng ghép trong hoạt động thực hành sáng tạo, thảo luận, phân tích, đánh giá thẩm mĩ của tiến trình dạy học và liên hệ, ứng dụng thực tiễn.

          Để hình thành, phát triển hoạt động sáng tạo và ứng dụng thẩm mĩ ở HS, trong tổ chức dạy học, giáo viên vận dụng các yếu tố kích thích khả năng thực hành, sáng tạo của HS bằng những cách thức khác nhau; khuyến khích HS thử nghiệm và đổi mới, kích thích tư duy, khả năng giao tiếp, hợp tác, giải quyết vấn đề và liên hệ, ứng dụng thực tiễn. Đồng thời, cần có những hướng dẫn cụ thể để HS chủ động chuẩn bị, sẵn sàng học tập, sáng tạo nhằm tăng cường ý thức trách nhiệm, thúc đẩy sự hứng khởi ở HS.

          Khi sử dụng các PP, kĩ thuật dạy học, giáo viên cần tích hợp, lồng ghép hoạt động thực hành, sáng tạo, ứng dụng thẩm mĩ với thảo luận, cũng như kết hợp quan sát, nhận thức và phân tích, đánh giá thẩm mĩ trong tiến trình dạy học. Đặc biệt cần lưu ý, không phải HS nào cũng có khả năng (năng khiếu) thể hiện sự khéo léo cần thiết cho sáng tạo, vì vậy, PPDH cần đánh thức trí tò mò của HS về văn hóa thị giác, giúp các em mạnh dạn, tự tin trong học tập, thực hành, trao đổi, nhận xét để khi trưởng thành, các em vẫn có khả năng tiếp nhận và quan tâm đến lĩnh vực mĩ thuật.

          II. Đổi cơ bản trong nội dung chương trình

            – Ở giai đoạn GD cơ bản: Mĩ thuật là nội dung GD bắt buộc từ lớp 1 – 9. CT tạo cơ hội cho HS làm quen, trải nghiệm kiến thức mĩ thuật thông qua nhiều hình thức hoạt động; hình thành, phát triển ở HS khả năng quan sát và cảm thụ nghệ thuật, nhận thức và biểu đạt thế giới; khả năng cảm nhận và tìm hiểu, thể nghiệm các giá trị văn hoá, thẩm mĩ trong đời sống và nghệ thuật.

          Giai đoạn GD định hướng nghề nghiệp: Mĩ thuật là môn học được lựa chọn theo nguyện vọng và định hướng nghề nghiệp của HS. Nội dung GD mĩ thuật được mở rộng, phát triển kiến thức, kĩ năng mĩ thuật đã hình thành ở giai đoạn GD cơ bản, tiếp cận các nhóm ngành nghề liên quan đến nghệ thuật thị giác và có tính ứng dụng trong thực tiễn; giúp HS phát triển tư duy độc lập, khả năng phản biện phân tích và sáng tạo nghệ thuật; hiểu được vai trò và ứng dụng của mĩ thuật trong đời sống; tạo cơ sở cho HS được tìm hiểu và có định hướng nghề nghiệp phù hợp với bản thân dựa trên nhu cầu thực tế, thích ứng với xã hội.

 

Học sinh phát triển tốt tư duy sáng tạo thông qua môn Mĩ thuật

          Cụ thể các nội dung khái quát ở từng cấp học như sau:

          Ở tiểu học, nội dung GD gồm: Lí luận và lịch sử mĩ thuật, Hội họa, Đồ họa (tranh in), Điêu khắc, Thủ công. Trong đó, nền tảng kiến thức cơ bản dựa trên tiếp cận các yếu tố và nguyên lí tạo hình; nội dung Lí luận và lịch sử mĩ thuật được giới hạn trong phạm vi làm quen với tìm hiểu tác giả, sản phẩm, tác phẩm, di sản văn hóa nghệ thuật và được giới thiệu, lồng ghép trong thực hành, thảo luận.

          Ở THCS, nội dung GD gồm: Lí luận và lịch sử mĩ thuật, Hội họa, Đồ họa (tranh in), Điêu khắc, Thiết kế công nghiệp, Thiết kế đồ họa, Thiết kế thời trang. Trong đó, nền tảng kiến thức cơ bản dựa trên các yếu tố và nguyên lí tạo hình; nội dung Lí luận và lịch sử mĩ thuật được giới hạn trong phạm vi tìm hiểu tác giả, sản phẩm, tác phẩm, di sản văn hóa nghệ thuật và được giới thiệu, lồng ghép trong thực hành, thảo luận. Ở mỗi lớp 8 và lớp 9, CT thiết kế chủ đề hướng nghiệp, giúp HS có hiểu biết ban đầu về các ngành nghề liên quan đến mĩ thuật tạo hình, mĩ thuật ứng dụng dựa trên kiến thức mĩ thuật; từ đó làm cơ sở để định hướng nghề nghiệp trong tương lai.

          Bên cạnh việc GV, nhà trường chủ động chuẩn bị để tổ chức dạy học; phụ huynh cần hỗ trợ và đồng hành với con em trong việc chuẩn bị các điều kiện học tập, giúp các em sẵn sàng tham gia trải nghiệm, thực hành, sáng tạo mĩ thuật một cách tốt nhất, trên cơ sở phù hợp với khả năng bản thân và gia đình.

          Ở THPT, các nội dung GD lựa chọn gồm: Lí luận và lịch sử mĩ thuật, Hội họa, Đồ họa (tranh in), Điêu khắc, Thiết kế công nghiệp, Thiết kế đồ họa, Thiết kế thời trang, Thiết kế mĩ thuật sân khấu, điện ảnh, Thiết kế mĩ thuật đa phương tiện, Kiến trúc. Trong đó trọng tâm là phát triển kiến thức, kĩ năng mĩ thuật đã hình thành ở giai đoạn GD cơ bản; nội dung Lí luận và lịch sử mĩ thuật vừa được thực hiện độc lập, vừa thực hiện lồng ghép trong thực hành, thảo luận. Bên cạnh đó, CT có các chuyên đề học tập dành cho những HS yêu thích và có thiên hướng mĩ thuật, gồm: Hình họa, Trang trí, Bố cục.

          Ngoài ra, ở THPT, môn Mĩ thuật còn có các chuyên đề học tập. Đây là nội dung GD lựa chọn, dành cho những HS yêu thích và có thiên hướng mĩ thuật. Mỗi năm học, HS được lựa chọn 3 chuyên đề với tổng thời lượng 35 tiết. Nội dung các chuyên đề gồm: Thực hành vẽ hình hoạ, Thực hành vẽ trang trí 1, Thực hành vẽ tranh bố cục 1, Thực hành vẽ hình họa 2, Thực hành vẽ trang trí 2, Thực hành vẽ tranh bố cục 2, Thực hành hình họa 3, Thực hành vẽ trang trí 3, Thực hành vẽ tranh bố cục 3.

          Lưu ý để thực hiện thành công CT

          – Dạy học CT môn Mĩ thuật mới, giáo viên (GV) có thuận lợi khi thực hiện mạch nội dung mĩ thuật tạo hình ở các cấp học và mĩ thuật ứng dụng cấp tiểu học; đồng thời, những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học đã được các cơ sở GD, đội ngũ GV coi trọng, thực hiện. Phát huy tinh thần đổi mới này, GV sẽ có nhiều thuận lợi trong triển khai dạy học CT mới.

          Tuy nhiên, thay đổi dạy học từ CT định hướng nội dung (đáp ứng mục tiêu chuẩn kiến thức, kĩ năng) sang dạy học CT phát triển phẩm chất, năng lực HS (đáp ứng yêu cầu cần đạt) sẽ có khó khăn ban đầu với GV. Đòi hỏi GV cần nghiên cứu kĩ CT, chủ động tìm hiểu những điểm mới của CT và các tài liệu liên quan, đặc biệt nội dung mĩ thuật ứng dụng; tích cực tham gia các lớp bồi dưỡng dạy học CT mới…, làm cơ sở để tổ chức dạy học đáp ứng yêu cầu cần đạt trong CT.

          – Để thực hiện CT môn Mĩ thuật, tùy vào điều kiện thực tiễn ở địa phương, GV nhà trường cần chuẩn bị thiết bị dạy học cần thiết, phù hợp với nội dung GD trong CT, như: Phòng học bộ môn và đồ dùng, thiết bị trong phòng học; tranh, ảnh, mẫu vẽ…, băng đĩa hình ảnh, video, tư liệu…; hoạ phẩm, vật liệu sẵn có… và không gian học tập (trong lớp, ngoài lớp).

          Ngoài đồ dùng, thiết bị dạy học tối thiểu được quy định trong danh mục do Bộ GD&ĐT ban hành, nhà trường khuyến khích GV, HS tự chuẩn bị đồ dùng, thiết bị dạy học; đồng thời, phối hợp, huy động sự giúp đỡ của các cá nhân, tổ chức ở địa phương để bổ sung thiết bị dạy học phù hợp với CT.

          CT môn Mĩ thuật là căn cứ để biên soạn SGK, các tài liệu hướng dẫn, chỉ đạo dạy học và đánh giá kết quả GD. Căn cứ yêu cầu cần đạt của CT, các nhà trường xây dựng, phát triển kế hoạch thực hiện CT phù hợp với đặc điểm của nhà trường, địa phương và đối tượng HS.

          Giai đoạn GD cơ bản, căn cứ vào điều kiện thực tế, nhà trường có thể xây dựng thời khoá biểu luân phiên giữa các khối.

          Giai đoạn GD định hướng nghề nghiệp, nhà trường hướng dẫn HS lựa chọn các nội dung học tập phù hợp với sở thích ngành nghề, khả năng của bản thân; các hướng lựa chọn có thể tập trung khám phá, tìm hiểu ngành nghề liên quan đến mĩ thuật tạo hình, mĩ thuật ứng dụng hoặc kết hợp lựa chọn tìm hiểu ngành nghề vừa liên quan đến mĩ thuật tạo hình và mĩ thuật ứng dụng; đồng thời, nhà trường cần xây dựng thời khoá biểu thuận lợi cho tổ chức hoạt động dạy học phù hợp với đặc thù môn học lấy hoạt động thực hành, sáng tạo làm trọng tâm.

          Với HS có năng khiếu mĩ thuật, GV chú trọng dạy các nội dung thực hành, sáng tạo đa dạng theo mức độ nâng cao dần; khích lệ HS tham gia các phong trào, hình thức hoạt động mĩ thuật trong, ngoài nhà trường phù hợp với khả năng; đồng thời, tư vấn, phối hợp với gia đình tạo cơ hội để HS phát triển năng khiếu nghệ thuật theo sở thích, thiên hướng của bản thân.

          Với HS có thể trạng đặc biệt, căn cứ yêu cầu cần đạt của CT, nhà trường, GV xây dựng kế hoạch GD, vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi và khả năng nhận thức, vận động của HS, giúp HS có hiểu biết thiết yếu về mĩ thuật trên cơ sở nội dung thực hành, sáng tạo ở mức độ đơn giản; đồng thời, phối hợp với gia đình, giúp HS từng bước nâng cao thể trạng bản thân và phát triển học tập, hòa nhập vào đời sống.

          Với HS vùng khó khăn, nhà trường, GV xây dựng kế hoạch GD phù hợp với điều kiện thực tế, giúp HS có hiểu biết cần thiết về mĩ thuật thông qua các nội dung thực hành, sáng tạo ở mức độ đơn giản, kết hợp với hoạt động trải nghiệm gắn với đời sống thực tiễn; đồng thời, khuyến khích, động viên HS nỗ lực học tập, tham gia các hoạt động mĩ thuật phù hợp với bản thân.

          III.  Lưu ý về phương pháp giáo dục và kiểm tra, đánh giá

 

          Những nội dung cần chú trọng

          Việc đổi mới phương pháp GD Mĩ thuật theo định hướng hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực HS là trọng tâm của chương trình môn Mĩ thuật. Do vậy, phương pháp GD cần có cách tiếp cận mới, thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:

          Dạy học không chỉ trang bị kiến thức cho HS mà chú trọng rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề thẩm mĩ trong thực tế. Dạy học chú trọng tích hợp, lồng ghép hoạt động thực hành (tạo sản phẩm mĩ thuật) với thảo luận (tìm hiểu, nhận biết kiến thức, kĩ năng, khám phá giá trị thẩm mĩ ở tác phẩm, sản phẩm, di sản văn hóa nghệ thuật…). Đồng thời, tăng cường khai thác, vận dụng đa dạng chất liệu, vật liệu sưu tầm, sẵn có và sử dụng, phối hợp các hình thức thực hành, sáng tạo; Vận dụng đa dạng các không gian, môi trường học tập, trải nghiệm trong và ngoài lớp, ngoài trường thông qua học cá nhân, học nhóm, học theo dự án… trong tổ chức dạy – học.

          Chia sẻ về các phẩm chất chủ yếu mà môn học góp phần hình thành, phát triển thông qua phương pháp GD, theo ThS.GVC Nguyễn Thị Đông, thông qua việc tổ chức các hoạt động thảo luận, thực hành, trải nghiệm, sáng tạo, giáo viên giúp HS nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ về bản thân và thế giới xung quanh, tình yêu nghệ thuật và cuộc sống; nâng cao nhận thức về tình yêu gia đình, quê hương, tình thân ái giữa con người với con người, ý thức bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên và không gian văn hóa, thẩm mĩ.

          Cùng với đó, trân trọng các sản phẩm, tác phẩm mĩ thuật và sự sáng tạo của nghệ sĩ; bồi dưỡng niềm tự hào về truyền thống văn hóa, nghệ thuật dân tộc, ý thức tôn trọng sự đa dạng về văn hóa của các dân tộc, góp phần xây dựng và phát triển đời sống thẩm mĩ của cá nhân và cộng đồng. Rèn luyện cho HS đức tính chuyên cần, tính trung thực, tình yêu lao động, ý thức trách nhiệm, tính tự lực, tinh thần hợp tác trong giải quyết đề học tập và vận dụng thực tiễn…

          Với việc hình thành, phát triển các năng lực chung, ThS.GVC Nguyễn Thị Đông cho biết: Trong dạy học môn Mĩ thuật, giáo viên tổ chức các hoạt động học tập, thực hành, trải nghiệm, sáng tạo đa dạng với sự tham gia tích cực, chủ động của HS. Đặc biệt, cần khích lệ HS sẵn sàng cho việc thực hành, sáng tạo và thảo luận nghệ thuật thông qua việc chuẩn bị, xác lập mục tiêu học tập, thiết kế nội dung, kế hoạch, dự án học tập… và thực hiện kế hoạch, nhiệm vụ học tập của cá nhân, của nhóm, góp phần nâng cao năng lực tự chủ và tự học ở HS.

          Dạy học Mĩ thuật có nhiều ưu thế hình thành và phát triển ở HS năng lực giao tiếp và hợp tác. Thông qua các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học kết hợp lồng ghép thảo luận và thực hành nghệ thuật, HS được thường xuyên tham gia trao đổi, chia sẻ về tác giả, nghệ sĩ, về tác phẩm, sản phẩm mĩ thuật, di sản văn hóa nghệ thuật; giới thiệu kết quả học tập, thực hành của cá nhân, bạn bè; bày tỏ cảm nhận, suy nghĩ, quan điểm về thẩm mĩ… tạo nên kết quả học tập của nhóm dựa trên những cách thức hợp tác khác nhau.

          Trong tổ chức hoạt động dạy học, giáo viên vận dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học thích hợp, giúp HS có cơ hội vận dụng kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm của bản thân để tìm hiểu, khám phá và thực hành, trải nghiệm, phát hiện yếu tố thẩm mĩ trong nghệ thuật và đời sống; khích lệ HS đề xuất vấn đề, ý tưởng thẩm mĩ và lựa chọn giải pháp thể hiện; khuyến khích HS tiếp tục đổi mới trong tiến trình học tập trên cơ sở nhận thức và tư duy phản biện thẩm mĩ, góp phần hình thành, phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo ở HS.
 

Hình thức kiểm tra, đánh giá đặc trưng của môn học

          Mục tiêu đánh giá kết quả GD mĩ thuật là cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực và sự tiến bộ của từng HS. Giúp HS tự đánh giá sự tiến bộ của bản thân và tự điều chỉnh hoạt động học tập; giúp giáo viên biết được những tiến bộ và hạn chế của HS, từ đó có hướng dẫn kịp thời và điều chỉnh kế hoạch GD, hoạt động dạy học một cách phù hợp; giúp nhà quản lí hiểu rõ chất lượng GD, làm căn cứ để có những điều chỉnh và nâng cao chất lượng GD. Giúp cha mẹ HS hiểu rõ những tiến bộ của con và có những biện pháp, phối hợp GD với nhà trường. Đối tượng đánh giá là sản phẩm và quá trình học tập, rèn luyện của HS.

          Đánh giá thông qua quan sát: Quan sát quá trình HS thực hành, thảo luận, thực hiện nhiệm vụ học tập trong lớp, ngoài lớp/ngoài trường, tham gia dự án nghiên cứu… bằng cách sử dụng bảng quan sát, bảng kiểm, hồ sơ học tập…

          Đánh giá thông qua sản phẩm: Thực hành, sáng tạo; bài tự luận, bài trắc nghiệm khách quan, báo cáo kết quả sưu tầm, kết quả thực hiện dự án học tập…

          Đánh giá thông qua vấn đáp, thuyết trình: Trả lời câu hỏi, phỏng vấn, thuyết trình ý tưởng, kết quả tìm hiểu, khám phá, nghiên cứu, phân tích, chia sẻ cảm nhận, quan điểm…

         Chương trình môn Mĩ thuật khuyến khích giáo viên kết hợp hài hoà giữa đánh giá thường xuyên (quá trình) và đánh giá tổng kết (định kì); trong đó, đánh giá thường xuyên được thực hiện trong toàn bộ tiến trình dạy học và tích hợp trong các hoạt động dạy học; đánh giá tổng kết được thực hiện ở thời điểm gần hoặc cuối một giai đoạn học tập (cuối học kì, cuối năm học, cuối cấp học). Dù đánh giá thường xuyên hay đánh giá tổng kết cũng cần đảm bảo kết hợp giá định tính và đánh giá định lượng. Đánh giá định tính được thực hiện chủ yếu ở cấp tiểu học; đánh giá định lượng được sử dụng chủ yếu ở cấp THCS và THPT, đảm bảo phân hoá dần ở các lớp học trên.

          Chia sẻ những lưu ý trong đánh giá kết quả GD chương trình môn học, ThS Nguyễn Thị Đông cho biết: Việc đánh giá phẩm chất của HS trong môn Mĩ thuật chủ yếu được thực hiện bằng phương pháp định tính, thông qua quan sát, ghi chép, nhận xét bằng lời về thái độ, tình cảm, hành vi ứng xử của HS khi tham gia các hoạt động mĩ thuật. Việc đánh giá năng lực đặc thù của môn học chủ yếu được thực hiện bằng phương pháp định lượng; coi trọng đánh giá khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng của HS trong học tập và những tình huống khác nhau; chú ý đánh giá vì sự tiến bộ của HS.

          “Các công cụ đánh giá cần bảo đảm tính tin cậy, toàn diện, khách quan, chính xác và phân hóa; kết hợp, vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức đánh giá, bao gồm việc HS tự đánh giá, đánh giá đồng đẳng; quan tâm đến những HS có sự khác biệt so với các HS khác về tâm lí, sở thích, về khả năng và điều kiện tối thiểu học tập. Nhà trường thông tin kịp thời về thời điểm đánh giá, hình thức đánh giá, công cụ đánh giá để HS chủ động tham gia quá trình đánh giá” – ThS.GVC Nguyễn Thị Đông lưu ý thêm./.

VTH sưu tầm từ  báo Giáo dục và Thời đại