Luật hiến pháp là gì ? Phân tích hệ thống ngành luật hiến pháp

Ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật của Nhà nước; điều chỉnh những quan hệ xã hội Cỡ bản nhất, quan trọng nhất liên quan đến tổ chức quyền lực nhà nước, gắn liền với việc xác định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá – xã hội, quốc phòng, an ninh, ngoại giao của đất nước tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

 

1. Sự ra đời luật hiến pháp ở Việt Nam

Ở Việt Nam, ngành luật hiến pháp được hình thành từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 (được đánh dấu bằng Sắc lệnh số 14 ngày 08.9.1945 do Hồ Chủ tịch ban hành và tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập hiến). Nguồn chủ yếu và quan trọng nhất của ngành luật hiến pháp Việt Nam là Hiến pháp – đạo luật cơ bản của Nhà nước, ngoài ra còn có các nguồn khác như Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và một số văn bản dưới luật có chứa đựng các quy phạm của luật hiến pháp do các cơ quan như Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Hội đồng nhân dân các cấp ban hành.

Một chuyên ngành khoa học pháp lý, đối tượng nghiên cứu của nó chính là ngành luật hiến pháp. Khoa học luật hiến pháp Việt Nam nghiên cứu các quy phạm, các chế định của luật hiến pháp Việt Nam, các quan hệ pháp luật luật hiến pháp Việt Nam, các phương pháp điều chỉnh của ngành luật hiến pháp và những quan điểm chính trị, pháp lý liên quan đến ngành luật hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp – đạo luật cơ bản của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Khoa học luật hiến pháp Việt Nam ra đời cùng với sự ra đời của ngành luật hiến pháp Việt Nam.

Một môn học trong chương trình đào tạo cử nhân luật, thạc sĩ luật và tiến sĩ luật. Đối tượng nghiên cứu của môn học này chính là ngành luật hiển pháp và khoa học luật hiến pháp Việt Nam. Môn học Luật hiến pháp Việt Nam được giảng dạy tại nhiểu trường chuyên ngành luật và không chuyên như trưởng Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật thành phổ Hổ Chí Minh, khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, khoa Nhà nước – Pháp luật của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các trường Đảng…

Luật hiến pháp điều chỉnh các quan hệ cơ bản, quan trọng nhất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, địa vị pháp lý của con người và công dân và đặc biệt là tổ chức, hoạt động của Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngành luật hiến pháp là ngành luật chủ đạo của hệ thống pháp luật. Trong khoa học pháp lý, Luật hiến pháp là bộ môn khoa học quan trọng. Kiến thức về Luật hiến pháp là nền tảng để nghiên cứu nhiều bộ môn khoa học pháp lý khác.

 

2. Định nghĩa ngành luật hiến pháp

Căn cứ vào khái niệm đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh và quy phạm pháp luật phân tích trên đây, có thể định nghĩa ngành Luật hiến pháp một cách cụ thể như sau: Ngành Luật hiến pháp là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, điều chỉnh những quan hệ xã hội nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất trong xã hội gắn với việc xác định chế độ chỉnh trị, chỉnh sách cơ bản trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ, quốc phòng và an ninh, đối ngoại; quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân; tố chức, hoạt động của bộ mảy nhà nước và các cơ quan trong bộ máy nhà nước.

Ngành Luật hiến pháp là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam và sự độc lập của ngành Luật hiến pháp được xác lập bởi các đặc điểm riêng của đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của ngành luật này như phân tích ở các mục trên.

 

3. Hệ thống ngành luật hiến pháp

Ngành Luật hiến pháp không phải là một tập hợp hỗn độn các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội nền tảng, cơ bản và quan trọng trong xã hội. Trái lại, ngành Luật hiến pháp là một tập hợp có hệ thống các quy phạm pháp luật theo các bộ phận có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khoản 2 Điều 7 Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 2013. phận cấu thành nhỏ nhất là quy phạm pháp luật, hệ thống ngành Luật hiến pháp còn được cấu thành bởi hai bộ phận là các nguyên tắc bao trùm (các nguyên tắc chung) và các chế định.

 

3.1 Các nguyên tắc bao trùm của ngành Luật hiến pháp​:

Nếu các quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp thường mang tính khái quát thì các nguyên tắc bao trùm thậm chí còn mang tính khái quát cao hơn, đó là các tư tưởng, quan điểm mang tính chủ đạo đối với toàn bộ các chế định và quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp, chúng chi phối nội dung của các quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp ở tất cả các lĩnh vực. Có ba nguyên tắc bao trùm của ngành Luật hiến pháp:

– Nguyên tắc chủ quyền nhân dân: Nguyên tắc này được thể hiện xuyên suốt trong các chế định và quy định của ngành Luật hiến pháp mà trực tiếp nhất là tại khoản 2 Điều 2 và Điều 3 của Hiến pháp năm 2013. Nội dung của nguyên tắc này là đặt con người vào vị trí trung tâm của tất cả các công việc của nhà nước và xã hội, từ ngay trong lĩnh vực chính trị tới các chính sách trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ, đên các quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân cũng như lĩnh vực tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

– Nguyên tắc nhà nước pháp quyền XHCN: Nguyên tắc này được quy định tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013. Nguyên tắc nhà nước pháp quyền XHCN yêu cầu tôn trọng, bảo đảm quyền con người trong mọi lĩnh vực mà ngành Luật hiến pháp điều chỉnh và tôn trọng tính tối cao của pháp luật trong mọi mặt tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

– Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc: Nguyên tắc này được thể hiện một cách rõ ràng ở Điều 5 Hiến pháp năm 2013. Nội dung của nguyên tắc là ngành Luật hiến pháp trong mọi lĩnh vực điều chỉnh của mình phải bảo đảm không có sự phân biệt giữa các dân tộc, các dân tộc thiểu số hoặc ở những địa bàn khó khăn phải được hưởng những chính sách ưu tiên phù hợp.

 

3.2 Các chế định của ngành Luật hiến pháp​:

“Chế định” là một trong những khái niệm cơ bản của luật học. Thuật ngữ “chế định” được dùng để chỉ tập hợp các quy phạm pháp luật của một ngành luật điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hộicùng loại, tức là có cùng tính chất hay đặc điểm nhất định. Có thể hình dung rằng mỗi ngành luật đều là tập hợp của nhiều chế định được hình thành trên cơ sở các quy phạm pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất, đặc điểm trong tổng thể các quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó. cần lưu ý rằng, xác định các chế định trong một ngành luật là một việc làm linh hoạt. Một ngành luật có thể có một số chế định lớn và trong chế định lớn có thể có chế định nhỏ tùy thuộc phạm vi của các quan hệ xã hội có cùng tính chất mà các chế định điều chỉnh. “Chế định” cũng là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn đối với công tác lập pháp và hoàn thiện pháp luật. Các quan hệ xã hội cùng loại luôn đòi hỏi sự điều chỉnh nhất quán và do đó các quy phạm pháp luật trong chế định tương ứng cũng phải được xây dựng thống nhất với nhau.

Như vậy, chế định của ngành Luật hiến pháp là tập hợp các quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội có cùng loại trong phạm vi đối tượng điều chỉnh của ngành Luật hiến pháp. Ngành Luật hiến pháp có các chế định lớn cơ bản như sau:

– Chế định về chế độ chính trị bao gồm các quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp điều chỉnh các vấn đề cơ bản và quan trọng nhất trong lĩnh vực tố chức thực hiện quyền lực nhà nước.

– Chế định về mối quan hệ cơ bản giữa Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam với công dân Việt Nam và người dân sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm các quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trên lãnh thổ Việt Nam. Chế định này cũng có thể được gọi là chế định quyền cơ bản của người dân.

– Chế định về chính sách kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại bao gồm các quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp quy định những quan hệ xã hội cơ bản, quan trọng nhất trong lĩnh vực tương ứng, qua đó hình thành các chính sách định hướng của nhà nước trong các lĩnh vực.

– Chế định về chế độ bầu cử bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực bầu cử để hình thành Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, hay còn gọi là hệ thống cơ quan dân cử ở Việt Nam.

– Các chế định về tổ chức, hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, chính quyền địa phương, TAND, VKSND và các cơ quan hiến định độc lập bao gồm các quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước tương ứng.

Có thể thấy rằng các chế định cơ bản trên đây của ngành Luật hiến pháp có tính độc lập tương đối với nhau bởi nhóm quan hệ xã hội mà chúng điều chỉnh. Tuy nhiên, một số chế định có thể được tích hợp thành những chế định lớn hơn bởi các nhóm quan hệ xã hội mà chúng điều chỉnh cũng có cùng đặc điểm hay tính chất. Ví dụ, các chế định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước có thể được tích hợp thành chế định của ngành Luật hiến pháp về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.

Để bảo đảm sự thống nhất trong từng chế định, các chế định cũng có thể có những nguyên tắc riêng, được hiểu là những quan điểm, tư tưởng chi phối tới các quy phạm pháp luật khác trong toàn bộ chế định. Ví dụ, trong chế định về chế độ bầu cử có các nguyên tắc bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, trong chế định về quyền cơ bản của người dân có nguyên tắc tôn trọng quyền con người, nguyên tắc quyền cơ bản chỉ có thể bị hạn chế bởi luật V.V..

Luật Minh Khuê (biên tập)