Khái niệm tranh chấp hợp đồng, các loại hợp đồng tín dụng

Hợp đồng tín dụng, bên cho vay chỉ có thể đòi tiền người vay sau thời hạn nhất định nên thường dẫn tới rủi ro và bất trắc, chẳng hạn, người vay không thanh toán hoặc thanh toán khoản tiền vay không đúng hạn như đã thoả thuận. Vì thế, những tranh chấp từ hợp đồng tín dụng cũng thường xảy ra.

1- Khái niệm tranh chấp hợp đồng tín dụng

Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng được hiểu là tình trạng pháp lí của quan hệ hợp đồng tín dụng, trong đó các bên thể hiện sự xung đột hay bất đồng ý chí với nhau về những quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Một hợp đồng tín dụng chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về phương diện quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài (mặt khách quan) thông qua những bằng chứng cụ thể và xác định được. Vì thế, không phải cứ khi nào có vi phạm hợp đồng thì khi đó có tranh chấp mà đôi khi sự vi phạm hợp đồng diễn ra trước và tranh chấp hợp đồng lại là sự kiện diễn ra sau đó một khoảng thời gian nhất định.

Thậm chí có sự vi phạm hợp đồng tín dụng nhưng không hề có tranh chấp bởi các bên không bày tỏ ra bên ngoài về sự bất đồng hay xung đột lợi ích giữa họ với nhau bằng các hành vi phản kháng cụ thể có giá trị chứng cứ. Trong thực tiễn, việc xác định đúng đắn và chính xác thời điểm phát sinh tranh chấp sẽ có tác dụng rất lớn trong việc xác định thời hiệu khởi kiện cũng như lựa chọn phương án giải quyết tranh chấp thật sự đúng đắn và phù hợp với pháp luật, trên cơ sở đó góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngày nay, tuỳ thuộc vào quan điểm, tư tưởng của nhà lập pháp mà pháp luật của mỗi nước có những quy định khác nhau về vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng sẽ được giải quyết bằng những phương thức sau đây:

– Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng phương thức thương lượng hoặc hoà giải qua trung gian. Theo quy định của pháp luật, để giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, trước hết các bên có quyền tự thương lượng với nhau về các mâu thuẫn, xung đột, bất đồng nhằm tiến tới sự dung hòa về lợi ích cho cả hai bên. Trong trường hợp việc thương lượng không đạt kết quả, các bên có thể lựa chọn giải pháp hoà giải với nhau qua trung gian hoà giải. Việc quy định các cơ chế này nhằm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên và giúp cho các bên tránh được những chi phí không cần thiết do phải theo kiện trước tòa. Tuy vậy, nếu các bên không thể tự giải quyết được tranh chấp cho mình bằng con đường thương lượng, hòa giải thì theo luật định họ có quyền đưa tranh chấp ra xét xử tại một cơ quan tài phán có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

– Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng cơ chế tài phán. Việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tài phán được xem như giải pháp cuối cùng để phân định quyền lợi giữa các bên theo quy định của luật tố tụng.

Trên thực tế, luật tố tụng của mỗi quốc gia có sự khác nhau trong việc quy định thẩm quyền và thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Chẳng hạn, theo pháp luật về tố tụng của Cộng hoà Pháp thì những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng (là chủ thể kinh doanh) với các pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh trong danh bạ thương mại, được xem là tranh chấp thương mại và sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án thương mại. Còn những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng với các chủ thể không phải là thương nhân thì việc giải quyết sẽ được phân định theo quy tắc sau đây:
(i) Nếu người bị kiện (bị đơn) là một thương nhân thì bên nguyên đơn có thể lựa chọn giữa tòa án thương mại hoặc toà án dân sự để khởi kiện;
(ii) Nếu người bị kiện là một người không phải thương nhân thì bên nguyên đơn chỉ có thể khởi kiện tại toà án dân sự.

Ví dụ: Nếu một Ngân hàng thương mại Pháp cho một công dân Pháp vay tiền (không phải để kinh doanh) mà đến hạn người đó không trả nợ thì ngân hàng thương mại có thể sử dụng quyền khởi kiện để kiện bên vay trước toà án dân sự.

Ở Việt Nam, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các tranh chấp về kinh doanh, thương mại, trong đó có tranh chấp về hợp đồng tín dụng sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự. Ngoài ra, theo Luật trọng tài thương mại năm 2010 nếu hợp đồng tín dụng có thoả thuận của các bên về việc lựa chọn cơ quan tài phán là trọng tài thương mại thì tranh chấp này sẽ được giải quyết tại trọng tài thương mại theo thủ tục tố tụng trọng tài.

2- Các loại hợp đồng tín dụng thông dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng

Trong thực tiễn, tuỳ thuộc vào sự đánh giá của các tổ chức tín dụng về khả năng trả nợ và mức độ uy tín của khách hàng đối với mình mà tổ chức tín dụng có thể lựa chọn giao, kết những loại hợp đồng tín dụng sau đây:

a) Hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản

Dưới góc độ pháp lí, hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản là thỏa thuận bằng văn bản, trong đó tổ chức, tín dụng cam kết chuyển giao cho khách hàng vay sử dụng số tiền của mình trong thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi trên cơ sở bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của người vay hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba. Xét về phương diện lí luận, hợp đồng tín dụng có bảo đảm được nhận diện nhờ các đặc điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, trong hợp đồng tín dụng có bảo đảm luôn tồn tại những điều khoản về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tiền vay. Các điều khoản này có thể được ghi nhận ngay trong hợp đồng tín dụng hoặc tách biệt thành hợp đồng riêng đính kèm theo hợp đồng tín dụng. Thực tiễn cho thấy giải pháp ký kết hợp đồng bảo đảm riêng tách biệt với hợp đồng tín dụng vẫn thường được các bên. lựa chọn, vì những ưu điểm vốn có của nó trong việc bảo đảm sự an toàn pháp lí cho cả hai bên tham gia hợp đồng tín dụng.

Thứ hai, trong hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản, tổ chức tín dụng cho vay luôn có quyền ưu tiên theo đuổi tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho mình, bất luận tài sản bảo đảm đang nằm ở đâu và trong sự quản lí của ai. Quyền ưu tiên này được xác lập trên cơ sở giao dịch bảo đảm giữa tổ chức tín dụng (bên nhận bảo đảm) với khách hàng vay hoặc người thứ ba (gọi là bên bảo đảm). Với tư cách là chủ nợ có bảo đảm, tổ chức tín dụng cho vay có quyền ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản bảo đảm trước các chủ nợ có bảo đảm đăng kí sau hoặc trước các chủ nợ không được bảo đảm bằng tài sản đó.

Thứ ba, trong hợp đồng tín dụng có bảo đảm, quy trình thủ tục ký kết và thực hiện hợp đồng bao giờ cũng phức tạp hơn so với hợp đồng tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản, bởi lẽ các bên phải thoả thuận thêm về điều khoản bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tiền vay, ngoài những điều khoản thông dụng khác của hợp đồng tín dụng. Thực tế cho thấy rằng việc ký kết hợp đồng bảo đảm càng chặt chẽ bao nhiêu thì mức độ an toàn về phương diện pháp lí cho các bên càng cao bấy nhiêu. Vì lẽ đó, nhiều tổ chức tín dụng tỏ ra rất quan tâm đến những khía cạnh pháp lí của việc ký kết hợp đồng bảo đảm,, chẳng hạn như vấn đề hiệu lực pháp lí của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh từ hợp đồng bảo đảm, mối quan hệ giữa hiệu lực của hợp đồng bảo đảm với hợp đồng tín dụng…

Theo quy định của pháp luật hiện hành, ngoài những quy tắc chung dành cho hợp đồng tín dụng như đã phân tích ở trên, việc ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng có bảo đảm phải tuân thủ các quy định riêng sau đây:

– Kí kết hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản.

Như đã đề cập ở trên, việc ký kết hợp đồng tín dụng có bảo đảm luôn đi kèm với việc xác lập giao dịch bảo đảm. về nguyên tắc, do pháp luật hiện hành không có chỉ dẫn cụ thể nào nên các bên không nhất thiết phải giao kết hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay tại cùng thời điểm. Trong thực tế, nếu xảy ra trường họp các bên đã ký kết hợp đồng tín dụng và sau đó một thời gian mới xác lập giao dịch bảo đảm thì trong suốt thời gian kể từ khi ký kết hợp đồng tín dụng cho đến khi giao dịch bảo đảm được xác lập, hợp đồng tín dụng chỉ được coi là hợp đồng tín dụng không có bảo đảm. Kể từ thời điểm giao dịch bảo đảm được xác lập, hợp đồng tín dụng này mới chính thức được coi là hợp đồng tín dụng có bảo đảm và khi đó các bên mới bắt đầu bị ràng buộc với những quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch bảo đảm.

Thực tiễn cho thấy việc ký kết hợp đồng tín dụng có bảo đảm là khá phức tạp, với nhiều thủ tục rất khác biệt so với việc giao kết hợp đồng tín dụng không có bảo đảm. Theo tập quán giao dịch, để phòng ngừa các rủi ro pháp lí khi kí kết hợp đồng tín dụng có bảo đảm, các bên thường quan tâm đến những vấn đề pháp lí sau đây:

Một là cần lựa chọn hình thức bảo đảm nghĩa vụ dân sự phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh và lợi ích của các bên. Chẳng hạn, nếu tài sản bảo đảm thuộc loại không thể di dời được để chuyển giao cho bên nhận bảo đảm theo phương thức cầm cố thì các bên phải lựa chọn hình thức bảo đảm là thế chấp; hoặc, nếu tài sản bảo đảm không thuộc quyền sở hữu của bên có nghĩa vụ mà là của người thứ ba thì các bên có thể lựa chọn hình thức bảo đảm là thế chấp bằng tài sản của người thứ ba hoặc hình thức bảo lãnh (trong hình thức này, tài sản cụ thể của người thứ ba – người bảo lãnh được coi là dùng để bảo đảm cho nghĩa vụ của chính họ đối với bên nhận bảo lãnh, vì bản chất của bảo lãnh vốn dĩ là hình thức bảo đảm đối nhân).

Hai là cần đảm bảo giá trị pháp lí cho giao dịch bảo đảm đã được các bên xác lập, bằng cách tuân thủ đúng và đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch bảo đảm (ví dụ: điều kiện về chủ thể xác lập giao dịch; về tính tự nguyện và đồng thuận ý chí giữa các bên; về mục đích, nội dung và hình thức của giao dịch bảo đảm…). Theo quy định của pháp luật hiện hành, các điều kiện có hiệu lực của giao dịch bảo đảm là rất rõ ràng, cụ thể và khá thông thoáng nhằm đảm bảo tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Chẳng hạn, trong trường hợp các bên xác lập giao dịch bảo đảm nhưng có sự nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng hoặc vi phạm thủ tục về uỷ quyền hay vi phạm quy định về hình thức của giao dịch bảo đảm thì về nguyên tắc, họ có quyền tiến hành các biện pháp để khắc phục những thiếu sót đó trong thời hạn nhất định theo yêu cầu của toà án. Nếu quá thời hạn cho phép mà việc khắc phục những thiếu sót đó không được các bên thực hiện thì toà án mới có quyền tuyên bố giao dịch bảo đảm bị vô hiệu.

Ba là cần quan tâm đến mối quan hệ về hiệu lực pháp lí giữa giao dịch bảo đảm và hợp đồng tín dụng, bởi lẽ mối quan hệ này đã từng được chứng minh là có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định và bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng tín dụng có bảo đảm. Theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm, nếu hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Với quy định này, người soạn luật đã nghiêng hẳn về quan điểm cho rằng giao dịch bảo đảm là giao dịch tồn tại độc lập hoàn toàn với hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, bởi lẽ theo quy định nêu trên thì hiệu lực của nó (giao dịch bảo đảm) không hề phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm. Quan điểm này tỏ ra rất có lợi cho bên nhận bảo đảm, vì cho dù hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu, nghĩa là không làm phát sinh nghĩa vụ được bảo đảm nhưng giao dịch bảo đảm không vì thế mà vô hiệu theo. Do giao dịch bảo đảm vẫn có hiệu lực nên bên bảo đảm vẫn bị ràng buộc với nghĩa vụ bảo đảm mà mình đã cam kết và đồng thời bên nhận bảo đảm vẫn có quyền ưu tiên theo đuổi tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho mình, dù rằng khoản nợ đó không thực sự là khoản nợ chính phát sinh từ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm.

– Thực hiện hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản.
Trên nguyên tắc, việc thực hiện hợp đồng tín dụng có bảo đảm chỉ đặt ra khi họp đồng đó phát sinh hiệu lực pháp lí cho các bên cam kết. Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng có bảo đảm, mỗi bên đều phải thực hiện tất cả những quyền và nghĩa vụ mà mình đã cam kết. Hợp đồng tín dụng chỉ được coi là đã thực hiện xong khi nào các bên đã hoàn thành tất cả những quyền, nghĩa vụ của mình đối với bên đối ước và các bên tiến hành thanh lí hợp đồng. Tuy nhiên, vấn đề sẽ trở nên rắc rối và phức tạp hơn khi một trong các bên hoặc cả hai bên đều không thi hành các nghĩa vụ của mình như đã cam kết. Hệ quả pháp lí tất yếu là bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ sẽ phải gánh chịu các chế tài do các bên đã thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Đặc biệt, đối với trường hợp bên vay vi phạm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay và các nghĩa vụ khác có liên quan thì về nguyên tắc là khối tài sản bảo đảm sẽ được đem ra phát mại theo quy định của pháp luật để thu hồi nợ cho phía tổ chức tín dụng. Nếu khối tài sản bảo đảm không phát mại được hoặc phát mại được nhưng không đủ thanh toán nợ cho tổ chức tín dụng thì khi đó tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu bên vay phải thanh toán nợ bằng các tài sản khác của mình.

Vậy, trong trường hợp hợp đồng tín dụng có bảo đảm bị vô hiệu thì cách giải quyết đối với tài sản bảo đảm là như thế nào?

Theo quy định đã dẫn ở trên, do hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay là hai hợp đồng độc lập về mặt hiệu lực pháp lí nên khi hợp đồng tín dụng có bảo đảm bị vô hiệu thì sẽ không dẫn tới sự vô hiệu của hợp đồng bảo đảm tiền vay. Khi đó, khối tài sản bảo đảm sẽ được giải quyết như sau: 
– Nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bị vô hiệu nhưng các bên chưa thực hiện, nghĩa là không phát sinh nghĩa vụ hoàn trả tài sản thì do đó sự bảo đảm trở nên không cần thiết và vì thế giao dịch bảo đảm sẽ chấm dứt.

– Nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bị vô hiệu nhưng các bên đã thực hiện một phần hay toàn bộ thì về nguyên tắc là họ phải hoàn trả cho nhau các tài sản đã nhận. Trong trường hợp này, nếu việc hoàn trả tài sản đã nhận là nghĩa vụ của khách hàng thì do đó sự bảo đảm vẫn là cần thiết, nhằm bảo vệ quyền lợi của bên có quyền nhận lại tài sản. Khi đó, nghĩa vụ được bảo đảm sẽ là nghĩa vụ mới phát sinh – nghĩa vụ hoàn trả tài sản đã nhận do hợp đồng tín dụng vô hiệu và khối tài sản bảo đảm sẽ được đem ra xử lí để thu hồi đủ số tài sản này cho bên có quyền nhận tài sản là tổ chức tín dụng.
Ví dụ: Ngân hàng A cho doanh nghiệp B vay tiền với cam kết bảo đảm bằng tài sản thế chấp là nhà kho của doanh nghiệp B. Nếu vì lí do nào đó mà hợp đồng tín dụng giữa hai bên bị toà án tuyên bố vô hiệu và ngân hàng A đã thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tiền vay thì về nguyên tắc, họ sẽ được doanh nghiệp B hoàn trả lại số tiền mà chủ thể này đã nhận. Nghĩa vụ hoàn trả này sẽ được bảo đảm thực hiện bằng khối tài sản đã thế chấp, vì theo quy định trên thì giao dịch bảo đảm vẫn có hiệu lực, mặc dù hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm (hợp đồng tín dụng) đã bị vô hiệu.
Qua ví dụ trên đây, có thể khẳng định rằng theo pháp luật hiện hành về giao dịch bảo đảm thì nghĩa vụ được bảo đảm không chỉ là nghĩa vụ tài sản phát sinh từ hợp đồng được bảo đảm mà còn bao gồm cả nghĩa vụ hoàn trả tài sản cho bên nhận bảo đảm (nghĩa vụ này phát sinh do việc xử lí hợp đồng được bảo đảm bị vô hiệu, theo nguyên tắc các bên phục hồi tình trạng ban đầu như trước khi kí kết hợp đồng).

b) Hợp đồng tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản

Trong thực tế, mặc dù sự bảo đảm bằng tài sản cho các khoản vay của tổ chức tín dụng là cần thiết nhưng không phải mọi khoản vay ở tổ chức tín dụng đều cần có sự bảo đảm bằng tài sản. Đôi khi, những khoản cho vay kinh doanh hay cho vay tiêu dùng được cung cấp bởi tổ chức tín dụng lại dựa trên cơ sở không cần bảo đảm. Nghiệp vụ này được các tổ chức tín dụng áp dụng đối với những khoản vay mà họ cho rằng người đi vay có đủ uy tín, có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sử dụng vốn khả thi và khả năng trả nợ chắc chắn.
ở Việt Nam, việc cho vay không có bảo đảm giữa tổ chức tín dụng với khách hàng được quy định trong Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và những văn bản hướng dẫn thi hành. Các văn bản pháp luật này quy định những điều kiện để tổ chức tín dụng thực hiện quyền cho vay không có bảo đảm đối với khách hàng. Trong một số trường hợp đặc biệt, vì yêu cầu bảo đảm sự an toàn tín dụng cho tổ chức tín dụng và an ninh kinh tế mà quyền cho vay không có bảo đảm bị pháp luật hạn chế. Chế độ cho vay không có bảo đảm bằng tài sản bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:

– Những quy định về điều kiện vay vốn: Trong quan hệ hợp đồng tín dụng không có bảo đảm, điều kiện để vay vốn không phải là những tài sản đem bảo đảm, mà bao gồm rất nhiều yếu tố phản ánh năng lực trả nợ của người vay, như năng lực chủ thể, uy tín của người vay, phương án sử dụng vốn và tình hình tài chính của họ… Trong thực tiễn cho vay, để kiểm tra mức độ thỏa mãn các điều kiện này đối với một khách hàng, tổ chức tín dụng phải tiến hành thẩm định hồ sơ vay vốn thông qua hoạt động phân tích và điều tra tín dụng.

– Những quy định về ký kết và thực hiện hợp đồng vay không có bảo đảm: về nguyên tắc, mọi hợp đồng vay đều phải được ký kết, thực hiện và thanh lí theo các thủ tục do pháp luật quy định. Đối với hợp đồng tín dụng không có bảo đảm, thủ tục này đơn giản hơn nhiều so với thủ tục giao kết và thực hiện một hợp đồng tín dụng có bảo đảm. Trong quy trình cho vay theo nghiệp vụ này, ngoài các thao tác bắt buộc phải thực hiện (ví dụ như khách hàng lập hồ sơ tín dụng, tổ chức tín dụng thẩm định hồ sơ để xác minh các điều kiện vay vốn) thì trong khi đàm phán các điều khoản của hợp đồng, các bên không cần